Có Hình Một vì sao mang tên Mặt Trời - Звезда по имени Солнце - Trải lòng của lính Liên Xô tại Afghanistan

Tổng hợp từ Zinky Boys - Những quan tài kẽm - Svetlana Alexievich + Robin Whitby - 1992



Chiến tranh Liên Xô tại Afghanistan, hay còn được gọi là Xung đột Afghanistan - Liên XôChiến tranh Afghanistan là cuộc xung đột kéo dài 10 năm giữa các lực lượng quân sự Mujahideen chiến đấu nhằm lật đổ chính quyền Cộng hòa Dân chủ Afghanistan của Đảng Dân chủ Nhân dân Afghanistan (PDPA) theo chủ nghĩa c.ộng sản chống lại lực lượng Mujahideen được sự hỗ trợ của quân đội Liên Xô. Liên bang Xô viết ủng hộ chính phủ trong khi phe đối lập (Mujahideen) nhận được sự ủng hộ từ nhiều phía gồm Hoa Kỳ, Pakistan và các quốc gia Hồi giáo khác trong bối cảnh cuộc Chiến tranh Lạnh. Cuộc xung đột xảy ra đồng thời với Cách mạng Iran năm 1979 và Chiến tranh Iran-Iraq, ảnh hưởng tới sự trỗi dậy của lực lượng Mujahideen tại Trung Á.

Tập đoàn quân số 40 Liên Xô bắt đầu triển khai tại Afghanistan ngày 25 tháng 12 năm 1979. Vào giữa thập niên 1980 quân số quân đội Liên Xô tăng lên tới 108.800 lính và chiến tranh lan ra khắp lãnh thổ Afghanistan. Vào giữa năm 1987, Liên Xô dưới sự lãnh đạo của Mikhail Gorbachev tuyên bố là sẽ rút quân. Việc rút quân bắt đầu ngày 15 tháng 5 năm 1988, và chấm dứt hoàn toàn ngày 15 tháng 2 năm 1989.

Chỉ riêng thường dân, ước tính từ 850.000 đến 1,5 triệu người đã bị chết trong cuộc chiến và hàng triệu người Afghanistan đã chạy ra khỏi nước tị nạn, hầu hết tới Pakistan và Iran.

Cuộc chiến tranh được xem như là một phần của cuộc chiến tranh lạnh. Vì đó là một cuộc chiến tranh dai dẳng nên nó thỉnh thoảng được ví như là cuộc "chiến tranh Việt Nam của Liên Xô" hay "cái bẫy gấu" bởi báo chí Phương Tây vì họ cho rằng Hoa Kỳ có thể đã tạo điều kiện để Liên Xô can thiệp sâu vào cuộc chiến này và kết quả là nước này bị "sa lầy" tại Afghanistan trong suốt 10 năm. Cuộc chiến này đã có những tác động rất lớn đối với Liên bang Xô viết và thường được nhắc đến như là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô vào năm 1991.

 
Sửa lần cuối:
LỜI NÓI ĐẦU CỦA ĐỒNG TÁC GIẢ - ROBIN WHITBY


Những người lính bộ binh tại Afghanistan - 1979

Nếu cuộc chiến ở Việt Nam là một bước ngoặt của lịch sử Hoa Kỳ, thì cuộc chiến ở Afghanistan có thể được gọi là một bước ngoặt ấn tượng không kém đối với Đế chế XHCN của Liên Xô. Sự tương phản khá sắc nét giữa hai nền chính trị và các sự kiện lịch sử sẽ còn dư âm lâu dài đối với cả hai quốc gia. Mặc dù vậy, tôi cho rằng hậu quả của cuộc chiến tranh của Liên Xô ở Afghanistan để lại ấn tượng sâu đậm hơn, theo một cách nào đó.

Cuối năm 1989, trong khi cuộc chiến vẫn còn tiếp diễn, tôi may mắn được du lịch đến Liên Xô với một nhóm các cựu chiến binh và chuyên gia tâm lý học về chấn thương tâm lý thời hậu chiến, từ hồi chiến tranh Việt Nam. Chúng tôi gặp và nói chuyện với những sngười cựu chiến binh khá trẻ tuổi của Liên Xô trong cuộc chiến tại Afghanistan – hay họ tự gọi là Afgantsi (афганцы). Chúng tôi hạ cánh xuống sân bay Moscow dưới bầu trời u ám. Lúc này tôi không biết về bất kỳ ai khác trên máy bay, nhưng tôi cảm thấy rất kỳ lạ.

Bay tới Moscow, tôi thực sự đã chối bỏ những lời tuyên truyền bịa đặt của phương Tây về Liên Xô và con người nơi đây: Những câu chuyện của một cuộc cách mạng tháng 10 đẫm máu, đầy hận thù; Nạn đói khủng khiếp có kế hoạch và suy thoái kinh tế hầu như vô tận; Sự đàn áp của c.ộng sản, không khác mấy so với cuộc sống tàn nhẫn dưới thời Sa hoàng; Những câu chuyện về các ủy viên lười biếng và ích kỷ, sẵn sàng chiếm đoạt bất kỳ thứ tốt đẹp nào từ tay những người dân lương thiện chăm chỉ, và nếu họ dám chỉ trích bất cứ điều gì hoặc đơn thuần phát biểu suy nghĩ, những người xấu số sẽ bị tống vào các trại lao động khổ sai và lao động đến chết chết, hoặc bị kết án vào một nhà thương điên để giữ cho họ biết điều với nhiều loại thuốc hướng thần được Nhà nước cho phép.

Đây là Liên Xô mà tôi từng nghe kể về từ thời thơ ấu, về những cuộc thanh trừng đầy tính hoang tưởng của Stalin; cuộc cách mạng đẫm máu ở Hungary năm 1956, khi người dân nơi thủ đô Budapest tấn công xe tăng Liên Xô bằng tay không, bom xăng Molotov và súng ống tịch thu từ lực lượng cảnh sát mật; mối đe dọa thường trực của hàng vạn quân hiếu chiến, với hàng vạn chiếc xe tăng đang đợi ở phía bên kia của Bức màn sắt, chỉ chờ chực càn quét khắp châu Âu để quy phục cả một lục địa, nhằm thỏa sức hãm hiếp, cướp bóc và giết người. Hàng chục nghìn đầu đạn hạt nhân trên các tên lửa liên lục địa sẵn sàng phóng; những máy bay ném bom siêu thanh đã sẵn sàng cuối đường băng, đôi cánh của chúng nặng trĩu với những loại bom, sẵn sàng lao lên không trung ngay lập tức để khiến địa cầu phải lãnh chịu một mùa đông hạt nhân dài vô tận.

Tôi tham gia chuyến đi vì tôi đã từng là một người lính tham chiến ở Việt Nam. Tôi đã viết về cuộc chiến đó, và từ đó trở nên suy tư hơn với những quan điểm cá nhân và khách quan, về ý nghĩa của việc trở thành một người lính. Và, tôi cũng nghe nói rằng những cựu binh Afgantsi phải chịu đựng khổ cực và khó khăn giống như những người lính Mỹ ở Việt Nam, và chắc chắn sẽ phải chịu đựng những tai tiếng như vậy khi họ xuất ngũ. Tôi muốn tận mắt chứng kiến tác động của chiến tranh đối với họ, và có lẽ tôi sẽ giúp họ bớt đi phần nào nỗi đau chiến tranh, có lẽ giống như cảm giác mà tôi đã phải chịu đựng.

Những cựu binh Afghan đón chúng tôi tại sân bay với sự nồng nhiệt và lòng hiếu khách đáng kinh ngạc, và liên tục nói với chúng tôi rằng cuối cùng, họ cũng có người để nói chuyện và những người sẽ hiểu họ. Tôi không thể tự vấn trong đầu rằng, thế chẳng nhẽ chia sẽ với gia đình khó khăn đến thế sao? Nhưng rồi tôi nhớ lại những cuộc trò chuyện đầy khó khăn với bố mình khi tôi từ Việt Nam về nhà để cố gắng giải thích cho ông ấy hiểu về những gì đã xảy ra với tôi. Tôi đã rất ngạc nhiên và hài lòng khi nghe những cựu binh Afgantsi kia kể, sau khi chúng tôi đã đi chơi với nhau được hơn hai tuần, rằng sự khác biệt duy nhất giữa Afghanistan và Việt Nam là Afghanistan có màu nâu của sa mạc và Việt Nam có màu xanh lá cây của rừng rậm nhiệt đới. Chúng tôi đã kể với nhau những điểm tương đồng và những khác biệt lớn. Ví dụ, quân đội Liên Xô không cấp thẻ quân nhân (dogtag), vì vậy nhiều cựu binh Afgantsi đã xăm nhóm máu của họ lên cổ tay hoặc vai, hoặc mang một dây chuyền vỏ đạn AK (7.62x39) trên một sợi dây quanh cổ họ, với một mảnh giấy bên trong có tên, địa chỉ và số điện thoại của người thân. Các giải pháp tự chế như vậy khá phổ biến.


Người lính Liên Xô trên xe BTR để về nước - 1989

Chúng tôi đã gặp nhau và trò chuyện nhiều lần trong những tuần đó, những cuộc trò chuyện kéo dài đến tận đêm, được bôi trơn bởi hàng lít vodka. Nhiều người đã kể lể câu chuyện như một cựu binh tham chiến ở Việt Nam từ hồi thập niên 60-70, tức giận và cay đắng. Họ dẫn chúng tôi đến một viện bảo tàng 'tư nhân', nơi đó trưng bày các hình nộm mặc bộ quân phục rách rưới có bàn tay và khuôn mặt bằng nhựa. Ai sẽ đến thăm nơi đó? Trẻ em, tất nhiên. Ai đã gây nên mọi sự trên? KGB hay CIA?

Điều khiến tôi ngạc nhiên và xúc động sâu sắc nhất về chuyến thăm, các cuộc gặp gỡ và các cuộc nói chuyện riêng, là tôi đã trò chuyện với những người lính trẻ, có độ tuổi ngang tầm con tôi. Có lẽ bất kể quốc gia nào - người Mỹ chiến đấu ở Việt Nam, người Liên Xô ở Afghanistan, người lính nghĩa vụ Nam Phi ở Angola, quân đội Anh ở Bắc Ireland, người Israel và người Palestine ở Trung Đông - thực tế là những kiếp đời lính đáng thương và khá giống nhau theo một cách nào đó, đều mệt mỏi trước hiện thực tàn nhẫn và xấu xa. Bất kể lý do quân sự hay chính trị (các quyết định luôn được đưa ra bởi các chính trị gia và các 'chính khách' chưa bao giờ trải qua chiến trường), qua những lời càu nhàu thông thường hàng ngày, kết quả luôn giống nhau; đó là những thời khắc giết chết linh hồn và trái tim.​
 
Sửa lần cuối:
VÀI ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG - ROBIN WHITBY

Những điểm tương đồng giữa cuộc chiến của Mỹ ở Việt Nam và cuộc chiến của Liên Xô ở Afghanistan thật đáng kinh ngạc, và chúng đã chứng minh cho tôi thấy rằng chúng ta, dù có khác biệt về ý thực hệ và địa chính trị, nhưng với góc nhìn từ những người lính, vẫn có nhiều điểm chung hơn hẳn.


Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam (Việt Cộng) - 1966


Tay súng Mujahideen - Jalalabad, Kabul -1988


Cả hai cuộc chiến đều diễn ra mà không có sự ủng hộ của nhân dân trong cả hai nước. Thật vậy, trước năm 1985, chính phủ Liên Xô thông báo rằng quân đội của họ đang ở Afghanistan để hoàn thành 'nghĩa vụ quốc tế', xây dựng bệnh viện và trường học, trồng cây và nói chung là giúp đỡ người Afghanistan xây dựng một nhà nước xã hội chủ nghĩa. Thư từ bị kiểm duyệt gắt gao và ảnh thì không được phép gửi về. Thật vậy, sự kiểm duyệt kỹ lưỡng đến mức còn lại rất ít bức ảnh thực tế từ chiến trường của những cựu binh afghantsi còn tồn tại (điều này lại ngược lại với lính Mỹ ở Việt Nam, ở đó các quân nhân chụp lại mọi thứ khi có điều kiện). Những cựu binh Afgantsi kể lại khi xuất ngũ, đã nhận được yêu cầu thẳng thừng và lạnh lùng rằng: không được kể lại công khai những gì đã và đang xảy ra, một sự bịt miệng của chính phủ không khác gì những cựu binh tham chiến ở Việt Nam. Thi thể của những người lính Liên Xô được đưa về nhà trong những chiếc quan tài bằng kẽm được niêm phong, có quân đội hộ tống với lệnh không được mở quan tài. Các gia đình, trong nỗi đau vô cùng tận, không bao giờ có thể chắc chắn rằng con trai, anh em và chồng của họ đã thực sự chết, và thi thể của họ thực sự đang nằm trong quan tài. Không có lời giải thích chính đáng nào về những cái chết được đưa ra; đám tang được tiến hành vào ban đêm để tránh khỏi đám đông tò mò; và các bia mộ được khắc dòng chữ 'Đã hy sinh khi tham gia nghĩa vụ quốc tế', dạng như một cách nói tránh của “Đã tử trận”.

Cả hai cuộc chiến giờ đây được quốc tế ghi nhận là những thảm họa trong chính sách đối ngoại, bất kể những góc nhìn xét lại đang tăng lên về chủ đề Việt Nam. Vào mùa thu năm 1988, khi Liên Xô tuyên bố họ sẽ rút khỏi Afghanistan, một vị tướng Liên Xô được hỏi liệu cuộc chiến này có phải là một sai lầm hay không, và giống như các vị tướng đảm nhận việc phát ngôn ở mọi nơi trên thế giới, ông ấy sẽ không nói “không phải” ngay lập tức. Thay vào đó, ông tướng này sẽ dừng lại một lúc, rồi trả lời bằng cách nói theo kiểu câu tục ngữ cổ của Nga: “Một người thợ may nên đo vải bảy lần trước khi cắt” (Hay uốn lưỡi bảy lần trước khi nói). Nó gần như là một lời xin lỗi đại khái mà người dân Liên Xô sẽ nhận được. Nó có thể giống như tướng William Westmoreland nói một điều như vậy trước các phương tiện truyền thông vậy.

Cả hai đều là những cuộc nội chiến do quân đội chính phủ yếu kém, với sự trợ giúp của lực lượng chiến đấu chủ lực từ một đồng minh hùng mạnh (nếu không muốn nói là có hỏa lực vượt trội). Các cựu chiến binh Liên Xô nói về quân đội C.ộng sản Afghanistan với một sự chế nhạo, y như cách người Mỹ nói về quân đội QLVNCH ở miền Nam Việt Nam – Tham gia trận chiến sau cùng; quay trở lại căn cứ đầu tiên trở khi trận đánh kết thúc; phần lớn thời gian ngoài chiến đấu thì chỉ có ngủ trưa. Cả hai cuộc chiến đều chống lại quân địch được trang bị và cung cấp đầy đủ, ưa chuộng lối đánh du kích, có động lực cao. Ở Afghanistan, đó là Mujahedin (các thánh chiến sĩ), các cựu binh Afghantsi gọi là “bọn phỉ”.

Cả Việt Cộng và Mujahedin đều tuyệt đối tuân theo mục tiêu giải phóng dân tộc khỏi “ảnh hưởng ngoại bang” và sử dụng các chiến thuật du kích kinh điển như đánh và chạy, phục kích, gài và bẫy mìn; tận dụng sự an toàn của biên giới và thiên nhiên; đồng thời nhận được nhiều viện trợ quân sự từ các chính phủ nước ngoài hỗ trợ.

Trong cả hai cuộc chiến, độ tuổi trung bình của những người lính là mười chín, và cả hai đều phục vụ một thời gian chiến đấu cố định: 1 năm cho lính Mỹ và 2 năm cho lính Liên Xô. Có một sự khác biệt quan trọng ở đây. Ngoại trừ sự xuất hiện đầu tiên của toàn bộ sư đoàn, lính Mỹ đến và rời đi riêng lẻ. Bạn đến đất nước này với tư cách là một 'tên lính phương Tây lạ hoắc’. Khi bạn kết thúc chuyến phục vụ của mình với tư cách là một “người ngắn hạn” (hoàn thành chỉ đủ 1 năm nghĩa vụ), bạn nói lời tạm biệt với mọi người, gói ghém đồ đạc, lên máy bay và trở về nhà - thường bị bỏ lại tại trước cửa doanh trại khi xuất ngũ. Có vô số câu chuyện về việc hôm nay ở trong rừng rậm, hôm sau về nhà - và nhà ở đây ý tôi là ngôi nhà nơi bạn lớn lên - không có ai để thương hại hay đồng cảm, sự cô lập đột nhiên chiếm lấy và bóp nghẹt tâm trạng. Và mỗi khi bạn đến gần căn nhà xưa hơn, sự cô lập của bạn càng trở nên lớn hơn. Bạn được đón chào với một lễ mừng vì còn sống mà trở về, chóng theo sau đó là một cơn trầm cảm nặng nề có thể kéo dài trong nhiều năm.

Mặt khác, quân đội Liên Xô đã phục vụ trong một chuyến nghĩa vụ kéo dài hai năm, nhưng họ được luân chuyển công tác theo đơn vị (nhập và xuất ngũ theo nhóm). Những đám lính thường bao gồm những cậu trai trẻ lớn lên và đi học cùng nhau, sau đó gia nhập quân đội. Việc luân chuyển đơn vị đã tạo ra tiền đề cho các 'câu lạc bộ' cựu binh Afghantsi, giúp họ hỗ trợ lẫn nhau và quy mô những clb này cũng đến tầm quốc gia như Đoàn thanh niên, vốn là bất hợp pháp bên ngoài Đảng trước khi Liên Xô tan rã.

Cả cựu chiến binh Mỹ và Liên Xô đều đã trải qua các vấn đề tâm lý kéo dài trong những năm sau khi thực hiện nghĩa vụ quân sự - Rối loạn căng thẳng sau chấn thương (PTSD), được gọi là mệt mỏi khi chiến đấu (combat fatigue) và sốc đạn pháo (shellshock). Nói một cách đơn giản, vì bản chất tàn phá và hủy diệt của chiến tranh vũ trang, tác động của những căng thẳng tâm lý là không thể kiểm soát và khắc phục được. Danh sách các triệu chứng nổi bật bao gồm: những cơn ác mộng lặp đi lặp lại; cảm giác tội lỗi của một người sống sót (survivor’s guilt) thường được thể hiện dưới dạng trầm cảm không thể lay chuyển, suy nhược; hoang tưởng và phản ứng thái quá; và một hành vi tự hủy có mục đích, có thể là tự sát, hoặc lạm dụng ma túy và rượu – hay đó là điều mà Bộ Cựu chiến binh gọi là tự lạm dụng chất kích thích. (Mặc dù đã có chính thức 58.000 lính Mỹ đã ngã xuống ở Việt Nam, nhưng một số tương đương đã chết bởi chính tay họ, hầu hết là do rượu hoặc ma túy.)

Các chính sách của chính phủ Liên Xô đã quy định rằng các cộng đồng địa phương phải tiến hành các nghi lễ 'Chào mừng trở về nhà', chắc chắn là điều khiến các quan chức địa phương bối rối, vì quân đội ở Afghanistan trên báo đài chỉ tham gia vào việc 'xây các công trình công cộng'. Những cựu binh Afghantsi mà tôi đã nói chuyện gọi những nghi lễ này “trống rỗng, vô nghĩa”, thậm chí là 'buổi tiệc chào đón giả tạo'. Nếu các cựu chiến binh tham chiến ở Việt Nam không bị phỉ báng và bị gọi là những “tên đồ tể giết trẻ em” theo đúng nghĩa đen, thì sẽ gặp một sự thờ ơ vô cảm. “Anh đã đến Việt Nam? Thì?” Hoặc thẳng thừng hơn, ‘Bị mất một bên cánh tay à? Đáng đời, đồ khốn!’ Các cuộc diễu hành và tượng đài ‘Chào mừng trở về nhà’ (mặc dù có thể hoành tráng) đã diễn ra khá phổ biển trong mười năm qua, nhưng cơ bản là làm để cho có.

Nhưng trong tất cả những so sánh giữa lính Mỹ chiến đấu ở Việt Nam và lính Liên Xô trẻ tuổi đã chiến đấu ở Afghanistan, có lẽ điều đáng chú ý nhất là sự cay đắng của họ đối với chính quyền. Những cựu binh đều cảm thấy bị phản bội sâu sắc, và họ đã bị lừa dối nhiều nhất. Nếu chúng ta có thể nói ví von về chính phủ như một 'người cha' - người mà bạn cho rằng luôn yêu thương bạn và chỉ mong những điều tốt đẹp nhất cho bạn - thì việc bị người cha của mình phản bội không chỉ một lần, mà là ngày này qua ngày khác , chắc hẳn là một bài học mạnh mẽ và khó quên. Đó là kiểu oán hận vang dội sẽ dịu đi theo năm tháng, nhưng sẽ không bao giờ nguôi đi.

Năm 1971, sự căm phẫn đó đã xuất hiện trên các bậc thang của Điện Capitol ở Washington, DC, khi hết những cựu binh Việt Nam, từ người này đến người khác bước lên hàng rào được dựng lên chóng vánh, và ném lại huy chương của mình cho chính phủ đã trao tặng họ. Vào mùa thu năm 1991, những cựu binh Afghantsi trẻ tuổi đã tập hợp từ những vùng quanh Moscow, và phần còn lại của các quốc gia thuộc Liên Xô cũ để bảo vệ tòa nhà quốc hội Nga (được gọi là 'Nhà Trắng') và nhà lãnh đạo mới nổi của Nga, tổng thống Vladimir Yeltsin. Những cựu binh Afghantsi đã nhanh chóng tổ chức lực lượng để ngăn chặn những kẻ khiêu khích, đơn thuần chỉ là những kẻ say rượu và những tên chống đối ngồi trong các xe bọc thép BTR và xe tăng đang bao vây họ, nhằm cô lập các cuộc xung đột và giảm thiểu thương vong nếu có xảy ra, và nếu phải đương đầu với một cuộc tấn công thật sự, họ sẽ chiến đấu đến chết. Vào đêm mà một cuộc tấn công của những kẻ cuộc đảo chính được dự kiến, và các linh mục Chính thống đang làm lễ rửa tội cho tất cả những cựu binh Afghantsi, đã có hàng nghìn người cựu binh như vậy đã sẵn sàng và chắc chắn để chống trả, và họ không hề nản lòng hay không có vũ khí. Sự hiện diện của các cựu binh Afghantsi đã giúp ngăn chặn một cuộc đổ máu.


Vây hãm xe BTR - Moscow -1993
 
Sửa lần cuối:
NHẬT KÝ CỦA TÁC GIẢ Svetlana Alexievich

Ngày 14 tháng 6 năm 1986



1 Trung đội Liên Xô đứng duyệt hàng ngũ - Trung tâm thành phố Kabul - 1986

Mình thề là sẽ không bao giờ muốn viết thêm một từ nào nữa về chiến tranh. Sau khi hoàn thành cuốn “Chiến Tranh không có khuôn mặt phụ nữ”, một cuốn sách viết về Thế chiến thứ hai, mình vẫn thấy bất an khi nhìn thấy một đứa trẻ bị chảy máu mũi. Ở ngoài chốn nông thôn, mình không thể chịu được khi nhìn đám ngư dân vui vẻ ném những mẻ cá đánh bắt được lên bãi cát ven sông. Những con cá đó, được bắt lên từ dòng sông sâu thẳm, với đôi mắt lồi ra như thủy tinh của chúng, khiến mình chỉ muốn mửa ra. Mình chắc chắn rằng, tất cả chúng ta đều có cái giới hạn chịu đau đớn của mình, cả về thể chất lẫn tâm lý. Mình thì đã đến cái giới hạn đó rồi. Tiếng kêu thét lìa đời của một con mèo bị ô tô cán qua, thậm chí là hình ảnh một con sâu bị đè bẹp, khiến mình cảm thấy như sắp phát điên đến nơi. Chắc rằng muôn loài động vật, chim, cá, mọi sinh vật sống đều có quyền được sống.

Và rồi đột ngột, mình chợt nhận ra chiến sự ở Afghanistan đã diễn ra được bảy năm...

Một ngày nọ, mình với mấy đứa bạn cho một cô gái trẻ đi nhờ xe. Em ấy đã đến Minsk để mua sắm thực phẩm cho mẹ. Mình nhớ là em ấy có một cái túi lớn với những cái đầu gà thò ra ngoài, và một chiếc giỏ đựng đầy bánh mì mà bọn mình đã cho em để nhờ trong thùng xe.

Mẹ của em đang đợi ở trong làng. Hay đúng hơn, đứng ở cổng vườn trước nhà và đang than khóc. ‘Mẹ ơi!’ Cô gái chạy đến bên mẹ.

“Ôi, con tôi! Mẹ vừa nhận một lá thư. Thằng Andrei của nhà mình đi Afghanistan… Người ta đang đưa nó về nhà, giống như thằng Ivan Fedorinov. Chẳng phải người ta bảo nếu chôn con mình, ta chỉ cần một ngôi mộ nhỏ sao? Nhưng thằng Andrei nhà mình cao mét 8 và to ngang cây sồi già. Nó còn viết dòng cuối là: “Xin mẹ hãy tự hào về con, vì bây giờ con đang ở trên thiên đường.” Tại sao vậy? Tại sao? Ai đó có thể cho tôi biết vì sao Andrei lại ra nông nỗi này? Tại sao?”

Và rồi năm ngoái, mình được chứng kiến một câu chuyện khác.

Mình đang ngồi ở dưới mái hiên của trạm đợi xe buýt còn trống một nửa, thì bắt gặp một sĩ quan đang ngồi đó với một chiếc vali, và bên cạnh anh ta là một thanh niên gầy gò. Cái đầu cạo trọc chứng tỏ anh này là một người lính. Người lính trẻ đang đào đất cái chậu cây cảnh nhỏ (trong chậu là một cây sung con khô héo, mình nhớ là vậy) bằng một cái nĩa ăn bình thường. Một vài phụ nữ nông thôn ăn mặc giản dị đến ngồi cạnh họ vì tò mò, họ hỏi hai người sẽ đi đâu, và họ là ai? Hóa ra viên sĩ quan đang hộ tống người lính về nhà, và người lính trẻ đã hóa điên: “Đồng chí này đã bị ám ảnh về việc đào bới kể từ khi chúng tôi rời Kabul. Bất cứ thứ gì cậu ấy có thể cầm được là lại lôi ra đào bới. Thuổng, nĩa, gậy, bút... đưa cho cậu này cái gì thì sẽ đào bằng cái đó.” Anh lính trẻ nhìn lên, và lẩm bẩm: “Tất cả phải trốn... Tôi sẽ đào một cái rãnh... Sẽ không mất nhiều thời gian đâu... chúng tôi gọi đó là những ngôi mộ cho các anh em chiến hữu... Tôi sẽ đào một chỗ nằm cho tất cả các bạn ... '

Đó là lần đầu tiên mình nhìn thấy lòng đen sâu thẳm, to ngang mắt người của anh lính đó.


Xe bọc thép Liên Xô tại Kabul - 1988

Mọi người đang nói về điều gì vào thời điểm này, bảy năm từ khi cuộc chiến nổ ra?

Họ đang viết gì trên báo chí? Về thâm hụt thương mại của Liên Xô và các vấn đề địa chính trị như lợi ích quốc gia và biên giới phía nam của Tổ quốc. Mọi người đều biết về những tin đồn truyền miệng, về việc những bức thư đó được gửi đến những căn hộ tồi tàn ở các thị trấn và đến những ngôi nhà nông thôn đẹp như tranh vẽ ở các ngôi làng. Và rồi, những chiếc quan tài kẽm trở về, song quá lớn để lọt qua cửa của những căn hộ bao cấp kiểu Khrushchev được xây dựng vào thập niên 60. Các bà mẹ, đau buồn và phủ phục trước những chiếc quan tài kẽm lạnh lẽo, được kêu gọi hãy tập trung lại và phát biểu trước đám đông, ngay cả trong trường học, cổ vũ các nam sinh khác 'phải thực hiện nghĩa vụ với Tổ quốc'.

Báo chí đưa tin với bất kỳ đề cập nào về thương vong của quân đội Liên Xô đều bị kiểm duyệt tàn nhẫn. Họ muốn chúng ta phải tin rằng “một phần bé nhỏ của lực lượng vũ trang Liên Xô đang giúp đỡ dân tộc Afghan anh em xây dựng con đường tương lai”, tin rằng họ đang làm việc tốt ở kishlaks (tiếng Pashto chỉ làng mạc), rằng các bác sĩ quân y của chúng ta đang giúp đỡ phụ nữ Afghanistan sinh con được an toàn và khỏe mạnh. Nhiều người tin điều đó. Những người lính nghỉ phép mang đàn guitar của họ đến trường học và hát về những điều họ trăn trở.

Mình đã có một cuộc nói chuyện dài với một người trong số họ. Mình đã cố thuyết phục anh ta phải suy nghĩ về cái tính tàn nhẫn của sự lựa chọn giết hay không giết. Nhưng rốt cuộc nó đã không đi đến đâu, cái vấn đề đó dường như không thực sự tồn tại đối với anh ấy. Những gì là tốt? Những gì là xấu? Nhân danh chủ nghĩa xã hội để giết người có tốt không? Đối với những thanh niên như vậy, giới hạn của đạo đức được xác định bởi nhiệm vụ mà họ nhận được.


Xe tải lính Liên Xô tiến vào Kabul - 1979

Yury Karyakin, một đại văn hào Liên Xô, từng viết: ‘Chúng ta không nên đánh giá cuộc đời của một người đàn ông bằng nhận thức của anh ta về chính bản thân mình. Một thứ nhận thức như vậy chẳng bao giờ là thỏa đáng cả.’ Và mình đã đọc tác phẩm nào đó của Kafka, về những con người đã đánh mất chính mình theo một cách không thể cứu vãn được.

Nhưng mình không muốn viết về chiến tranh nữa…​
 
NHẬT KÝ CỦA TÁC GIẢ Svetlana Alexievich (tiếp)

Ngày 5 – 19 Tháng 9 Năm 1986

Sân bay Tashkent. Mùi dưa gang ngập mũi, khiến cái sân bay trông giống một cái ruộng dưa hơn. Nhiệt kế chỉ 30 độ C vào lúc 2 giờ sáng. Những con mèo béo lang thang vô chủ, có lẽ là giống mèo từ Afghanistan, chạy qua lại dưới gầm xe taxi không chút sợ sệt. Những người lính trẻ, tầm vừa mới bước ra từ tuổi dậy thì, nhảy nhót trên đôi nạng giữa đám đông khách du lịch rám nắng, những đống vali và thùng trái cây. Dường như không ai chú ý đến họ, bởi vốn những người lính này là một cảnh tượng quen thuộc ở đây, ngủ và ăn trên những tờ báo và tạp chí cũ làm lót sàn, cố gắng sống qua ngày hàng tuần liền, để có được một vé đi Saratov, Kazan, Novosibirsk, Voroshilovograd, Kiev, Minsk ... Làm sao mà họ bị què quặt? Họ phải bảo vệ cái gì? Không ai quan tâm. Ngoại trừ một cậu bé không thể rời mắt khỏi họ, và một người phụ nữ ăn xin đang ngà ngà say đến trước một anh lính và nói. “Lại đây nào, đồ khốn khổ… Cùng nhau về và sống chung nhà nhé...” Anh lính này giơ nạng xua đuổi bà ăn xin đi, nhưng có vẻ bà ấy không bận tâm, chỉ rủ rì điều gì đó buồn bã như bản năng một người mẹ.

Một số sĩ quan ngồi cạnh mình đang bàn về chất lượng kém của chân tay giả do Liên Xô sản xuất, và về bệnh sốt phát ban, dịch tả và sốt rét. Về việc hồi đầu chiến tranh, không có giếng, không có bếp dã chiến, không có nhà tắm, không có đồ dùng để vệ sinh cá nhân. Và về việc ai sẽ lấy những chiến lợi phẩm nào về nhà, ví dụ như máy quay video, của hãng Sharp hay Sony. Có câu “Chiến tranh với người này là dì ghẻ, nhưng lại là mẹ ruột của kẻ khác”. Mình không thể quên cái cách mà những sĩ quan đó nhìn những cô gái xinh xắn trong chiếc áo trễ vai, thư thái và vui vẻ sau kỳ nghỉ của họ…


Những tay súng Mujahideen - 1984

Dostoevsky từng gọi các quân nhân là “những kẻ thiếu suy nghĩ nhất trên thế giới”.

Mùi hôi thối của một nhà vệ sinh bị hỏng lan ra trong phòng chờ nhỏ cho chuyến bay tới Kabul. Đó là một sự chờ đợi lâu, bởi vì các sĩ quan nói đầu tiên phải đưa các thiết bị lên, sau đó mới cho người vào. . Và điều khiến mình ngạc nhiên là ở đó có khá nhiều phụ nữ trong phòng.

Một số câu nói mà mình nghe được:

'Tôi sắp điếc đến nơi rồi. Vì tự dưng tôi không thể nghe thấy tiếng chim hót, ví dụ như tiếng chim cổ vàng. Nên chị biết đấy, tôi đã ghi âm lại, và bật loa hết cỡ, nhưng... Chắc đó là hậu quả do nghe pháo nổ liên tục.'

“Anh phải bắn trước, sau đó mới kiểm tra cái xác xem đó là phụ nữ hay trẻ con... Tất cả chúng tôi đều gặp ác mộng liên tục...”

“Những con lừa như kiểu ở đằng kia, chúng nằm xuống khi nghe tiếng đạn pháo nổ, và khi đợt pháo kết thúc, chúng lại đứng dậy như không có gì xảy ra.”

“Về nhà thì tôi sẽ kiếm sống như thế nào? Bán thân? Chắc chả còn đường nào khác. Tôi chỉ muốn có đủ tiền để mua một căn hộ của riêng mình. Còn bọn đàn ông thì sao? Rặt là một lũ say xỉn.”

“Vị tướng này đang nói về tình hình ngoại giao đang xấu đi và nhu cầu bảo vệ biên giới phía nam Tổ quốc. Có vẻ như lão ấy đang sắp khóc đến nơi.”

“…Cứ ném cho chúng nó mấy viên kẹo. Trẻ con đứa nào chả thích đồ ngọt như kẹo?...”

“Có một sĩ quan trẻ tuổi. Khi phát hiện ra rằng chân của mình đã bị cắt bỏ, anh ấy bắt đầu khóc. Anh này có nước da mặt y như con gái, hồng hào và trắng trẻo. Lúc đầu tôi rất sợ phải nhìn những xác người, đặc biệt là những cái xác mất tay chân, nhưng dần tôi cũng quen với mấy cảnh đó.’ Trích lời một người phụ nữ đang nói.

“Bọn phỉ cũng bắt tù nhân đấy. Chúng nó chặt chân tay và thắt garô để lính ta không bị chảy máu cho đến chết, rồi cứ để như vậy để quân mình đến cứu về. Mấy anh lính tự dưng què cụt lúc đó chỉ muốn chết, nhưng họ vẫn sống.”

“Bọn hải quan ghé mắt thấy túi của tôi rồi hỏi: "Đồng chí mang gì về nhà thế?" - "Không có gì." - "Không có gì mà trông có vẻ phốp pháp nhỉ!?" Chúng nó không tin tôi. Bắt tôi phải cởi hết quần áo ra. Trong khi lính Afghantsi toàn mang về nhà hai, ba cái vali chất đầy của.’

“Dậy đi mọi người. Đừng ngủ quên mà phí phạm cái cảnh đẹp bên ngoài chứ. Chúng ta đến Kabul rồi đó.'

... Tiếng súng nổ vang phía xa xa. Đội tuần tra với tiểu liên được lên đạn và áo chống đạn kín như bưng kiểm tra giấy tờ của dân thường trên phố.

Mình thật lòng không muốn viết về chiến tranh nữa, chứ đừng nói đến cuộc chiến thực sự đang diễn ra ở đây.

Có điều gì đó vô đạo đức, khi ta soi mói quá sâu vào lòng dũng cảm của một người khi đối mặt với nguy hiểm. Hôm trước mình vừa ăn sáng trong căng tin và nói lời chào với đồng chí thanh niên đang làm nhiệm vụ bảo vệ doanh trại. Nửa giờ sau, cậu ta bị mất mạng bởi một mảnh đạn cối rơi vào doanh trại. Mình đã cố nhớ lại khuôn mặt của người lính đó, cả ngày.

‘Những tay lái buôn chuyện cổ tích.’ Đó là biệt danh mà đám lính gọi các nhà báo và nhà văn ở đây. Mình là người phụ nữ duy nhất trong nhóm lái buôn này. Những đám trai tráng trong quân phục nóng lòng muốn ra chiến trường. “Tại sao anh lại háo hức đến vậy?” Mình bèn hỏi một trong số họ.

“Vì nó hay. Tôi từng đến đèo Salang, cầm súng nã bòm bòm vài phát ở đó rồi về căn cứ.”

Mình không thể gạt bỏ đi ý nghĩ rằng chiến tranh là chuyện riêng của đàn ông. Cái tư tưởng đó thật là khó nuốt. Nhưng bản chất của chiến tranh lại quá lớn để hiểu hết được. Mình từng nghe Apollinaire (một nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch, nhà phê bình nghệ thuật Pháp gốc Ba Lan) ca rằng: “Ôi, chiến tranh tuyệt đẹp làm sao”.

Trong cuộc chiến, mọi thứ lại khác: bản thân, thiên nhiên và cả suy nghĩ của riêng mình. Viết đến đây mình chợt nhật ra, suy nghĩ của con người có thể vô cùng nghiệt ngã.

Mình đi hỏi và lắng nghe khắp nơi: trong trại lính, trong nhà ăn, trên sân bóng, ở các cuộc nhảy nhót buổi tối - và bắt gặp những khoảnh khắc bất ngờ của một giấc mơ về hòa bình.

“Anh đã nã tiểu liên ở cự ly rất gần, đến nỗi thấy sọ người nát vụn ra như thế nào. Thế là anh liền tự vấn bản thân: lần đầu giết địch mà như thế này à? Sau mọi vụ đụng độ và bắn nhau, luôn có người chết và bị thương nằm liệt giường. Không ai có ý kiến gì cả. Ở đây anh thi thoảng mơ thấy tàu điện, và từ Afghanistan về nhà bằng xe điện luôn... Lại nhớ đến cái mùi bánh nướng thơm ngập nhà của mẹ anh... “

“Tớ có một quen người bạn tốt ở đây. Một hôm tớ thấy bọn phỉ trải cả đống ruột gan của đồng chí đấy lên những tảng đá sa mạc… Tớ chỉ muốn tính sổ với cả lũ phỉ.’

“Chúng tôi lên phương án mai phục đoàn xe của địch. Cả bọn phải đợi tầm hai, ba ngày, vùi mình trong cát nóng, phóng uế ở đấy luôn. Sau ba ngày, ai cũng như phát điên. Khi đoàn xe đến, cả nhóm cùng kéo một tràng dài tiểu liên với trung liên, cho bõ ghét cái công mệt nhọc chờ đợi... Sau khi ngừng bắn, chúng tôi phát hiện ra đoàn xe này chỉ chở chuối và mứt. Thôi thì cứ lấy chiến lợi phẩm mà ăn như mấy thằng hề...”

“Chúng tôi bắt bọn phỉ làm tù binh. Chúng tôi gặng hỏi: “Kho vũ khí của chúng mày ở đâu?” Không đứa nào khai. Thế là giải đưa hai tên trong số đó lên trực thăng. “Ở đâu, nói mau.” Lại im lặng. Chúng tôi bèn ném một tên xuống những tảng đá nhọn ở dưới.”


Trực thăng Mi-24 lên đường tuần tra - 1989

Pushkin từng nói, “để viết một sự thực trần trụi hoàn toàn về bản thân, là một điều bất khả thi”.

'Hãy trả thù cho Malkin!' được viết nguệch ngoạc bằng sơn đỏ trên một chiếc xe tăng.

Giữa đường, một bà mẹ trẻ người Afghan quỳ gối bên xác của đứa con mà gào khóc thảm thiết. Nghiệt ngã, nhưng mình từng tưởng chỉ những con thú bị thương mới kêu gào như thế. Đoàn phóng viên lái xe qua những ngôi làng bị tàn phá. Chúng làm mình liên tưởng đến những cánh đồng đã được cày xới tung lên. Những đống bùn đất vô định hình kia, cách đây không lâu từng là những mái ấm che chở nắng mưa cho những gia đình, làm mình sợ hãi hơn là màn đêm đang che giấu những tay súng bắn tỉa của phe địch.

Tại bệnh viện, mình đã chứng kiến một cô bé Nga đặt một con gấu bông xuống đầu giường chỗ một đứa bé Afghan đang nằm. Thằng bé nhặt món đồ chơi bằng răng và vui vẻ chơi đùa, vì nó đã mất hai cánh tay. "Bọn lính Nga các người đã lấy đi đôi tay nó," mẹ thằng bé nói với mình qua thông dịch viên. 'Thế cô có con để hiểu cảm giác này không? Con cô là trai hay gái?’ Mình không thể đoán được lời nói của người mẹ này mang tính ác cảm hay dung tha nữa.

Có nhiều câu chuyện về sự tàn ác mà phe Mujahiden đối xử với tù binh chiến tranh của chúng ta. Nơi đây vẫn là một thời đại khác ở, thế kỷ thứ mười bốn, nếu tính theo lịch của Hồi giáo.

Trong tác phẩm Một anh hùng thời đại của Lermontov, nhân vật Maximich nói về tên sát thủ từ các bộ tộc trên núi đã giết bố của Valla: “Tất nhiên, theo quan điểm của bọn tộc kia thì hắn hoàn toàn đúng”, mặc dù theo góc nhìn của người Nga, hành động đó khá là dã man. Lermontov dựa vào tác phẩm, đã chỉ ra khả năng tuyệt vời của người Nga về việc đặt mình vào vị trí của người khác, hay nói cách khác là để hiểu tình hình thực tế, hãy đặt mình vào suy nghĩ của đối phương.

“Chúng nó đã giết bạn tôi. Sau đó, tôi thấy một số đứa trong hàng ngũ chúng nó cười và có cái vẻ mặt khoái trá. Bất cứ khi nào tôi nhìn thấy chúng nó vui vẻ với nhau là tay tôi không kiểm soát được. Tôi đã nã súng vào một đám cưới ở Afghanistan, tiễn cả đôi dâu rể về thiên đường với thánh Allah. Sao tôi phải tiếc thương cho chúng nó, khi tôi đã mất đi người bạn của mình.”

Trong tiểu thuyết Anh Em Karamazov của Dostoevsky, Ivan Karamazov từng nhận xét: “Không loài vật nào có thể độc ác, độc ác một cách sắc sảo và nghệ thuật như loài người.”

Mình nghi ngờ rằng người ta thích nhắm mắt làm ngơ trước một sự thật như vậy. Trong mọi cuộc chiến, dù là chiến đấu dưới danh nghĩa của Julius Caesar hay Joseph Stalin, hai bên đều cố giết lẫn nhau. Chắc chắn đó là giết người, nhưng chẳng ai muốn nghĩ về nó như vậy: ngay cả trong trường học ở Liên Xô, vì một số lý do, giáo dục chính thống mô tả lòng yêu nước theo hướng quân sự hóa. Mình nêu rằng 'vì một số lý do', nhưng không có gì bí mật cả, vì mục tiêu là chủ nghĩa xã hội thời chiến và một quốc gia thời chiến. Liệu nhân dân có thực sự muốn cái mục tiêu này, theo bất kỳ con đường nào không?

Con người ta không nên phải chịu những trải nghiệm cực đoan như vậy, ai mà chịu được chứ. Trong y học, nó được gọi là “trải nghiệm tuyệt đối” - nói cách khác, thử nghiệm trên người sống.

Hôm nay có ai đó dẫn lại lời của Tolstoy: “Con người là sinh vật mềm mỏng.”

Tối nay mọi người bật máy thu âm lên và nghe các bài hát ‘Afgantsi’, được sáng tác và hát bởi các cựu chiến binh của cuộc chiến này. Những giọng trai trẻ, yếu ớt, cố bắt chước giọng của Visotsky (một ca sĩ người Nga gốc Do thái), rền rĩ: “Mặt trời xuống làng kia như một quả bom lớn”; ‘Ai cần vinh quang? Tôi muốn sống - đó là huân chương duy nhất mà tôi cần’; ‘Tại sao chúng ta phải giết - và bị giết?’; 'Tại sao Người lại phản bội tôi như vậy, Mẹ Tổ quốc ngọt ngào?'; 'Tôi đã quên mất khuôn mặt của bạn bè'; 'Afghanistan, nhiệm vụ của chúng tôi, lẽ sống của chúng tôi'; ‘Những người cụt tay như những con chim lớn lò cò một bên chân trên biển xa’; 'Anh lính trẻ không còn nghe lệnh ai, vì bây giờ anh đã chết. Không có sự thù hận trên khuôn mặt, vì bây giờ anh đã chết '.

Đêm qua mơ thấy cảnh một số binh sĩ Liên Xô đang rời Afghanistan và mình đứng bên đường trong đám đông để tiễn họ. Mình đến sát một người lính trẻ, nhưng cậu này câm vì mất lưỡi. Mình có thể thấy bộ áo của bệnh nhân dưới lớp áo lính. Mình hỏi cậu ấy điều gì đó nhưng chiến sĩ này chỉ viết tên của mình: 'Vanechka, Vanechka ...' Cái tên Vanechka, thật rõ ràng làm sao. Khuôn mặt của cậu ấy làm mình nhớ đến một đồng chí trẻ mà mình đã tám chuyện chiều hôm đó, cứ nói đi nói lại cái câu: 'Mẹ đang đợi tôi về nhà.'

Lần cuối cùng nhóm phóng viên và nhà báo lái xe qua những con phố nhỏ im lìm và vắng lặng của Kabul, những tấm áp phích quen thuộc trang trí khắp trung tâm thành phố đập vào mắt: ‘Chủ nghĩa c.ộng sản - Tương lai tươi sáng của chúng ta’: ‘Kabul - Thành phố của hòa bình’; “Nhân dân và Đảng đều như một”. Áp phích của Liên Xô, được in trên máy in từ bộ máy tuyên truyền của Liên Xô, và tượng Lênin của Liên Xô đang đứng đây giơ tay vẫy...


Những người lính Liên Xô chuẩn bị về nước - Kabul - 1988

Tại sân bay, cả đoàn bắt gặp một đoàn làm phim quen biết. Họ đang quay phim quá trình đưa các quan tài lên “hoa tulip đen” (biệt danh của máy bay vận tải An-12 chuyên chở xác tử sĩ). Họ không dám nhìn thẳng vào mắt, khi họ mô tả người chết “đôi khi phải mặc những bộ đồng phục cổ xưa, thậm chí là áo chẽn Ấn từ thế kỷ trước; đôi khi, khi thậm chí không có đủ quần áo, xác được đưa vào quan tài hoàn toàn trần truồng. Những chiếc quan tài làm bằng những tấm ván tồi tàn, được cố định với nhau bằng những chiếc đinh gỉ. Những thi thể đang chờ vận chuyển được đưa vào kho lạnh, ở đó bốc ra mùi hôi thối như xác lợn lòi đang phân hủy.”

Ai mà tin được nếu những lời này thành chữ được chứ?​
 
Sửa lần cuối:
Mà tôi thấy hài khi red bull so sánh giữa Việt Nam và Afghanistan.
Cứ ra rả cái câu "Một dân tộc không có khả năng tự cứu mình thì suốt kiếp nô lệ".
Nhưng bản chất của Afghanistan là hàng chục các dân tộc cát cứ mỗi nơi 1 phương, có 2 thứ tiếng Dari kiểu Ba Tư và Pashto kiểu địa phương không hòa với nhau được. Nên cái khái niệm "dân tộc" của Cơm Sườn nó chẳng đúng nếu cứ khư khư áp dụng lên các nước đa sắc tộc.
Bản chất của dân Afghan là khi không có ai bên ngoài thao túng thì sẵn sàng đánh nhau và thông đít tới chết. Nhưng khi có ngoại bang xuất hiện (thực dân Anh, Liên Xô, Mỹ và đồng minh) thì cùng chung tay lại và đập. Xét cho cùng thì Taliban cũng là đại diện của nhân dân Afghanistan tự cứu mình và nhận viện trợ từ các anh em Hồi giáo đó thôi.
Nhưng với red bull thì người Hồi chỉ là Hồi mọi nên không hiểu.
 
NHẬT KÝ CỦA TÁC GIẢ Svetlana Alexievich (tiếp)
Ngày 20 Tháng 9 Năm 1986


Mình đã chứng kiến một trận đánh.

Ba người lính chết trận. Lúc ăn tối, không ai nhắc đến trận đánh lẫn người chết, mặc dù các thi thể vẫn đang nằm gần đó.

Tính mạng con người và nhân quyền là bất khả xâm phạm. Những điều này đều nằm trong bất cứ quyển hiến pháp của bất kỳ quốc gia nào.

Chiến tranh khác với hòa bình, không phải một hoạt động thường ngày. Mọi thứ ở đây đều khác: cả phong cảnh, cả con người lẫn lời nói. Hình ảnh của chiến tranh được hằn vào tâm trí mình: những chiếc xe tăng nổ tung, những tiếng thét mệnh lệnh vang lên, những đường đạn lóe sáng trong đêm.

Nghĩ về cái chết như nghĩ về tương lai. Có điều gì đó đang xảy ra với tâm trí khi ta chợt nghĩ về cái chết và chứng kiến nó. Bên cạnh nỗi sợ hãi, cái chết cũng có sự hấp dẫn của riêng nó.

Trong các câu chuyện kể về sự tàn nhẫn một cách ngây thơ ở đám lính, từ mồm của những người vừa học xong lớp Mười mới đây thôi, tính gây sốc không phải là hiếm. Mình tò mò muốn biết về cuộc đối thoại với lương tâm trong tâm khảm những người lính kia.​


Xe tăng T-72 của Liên Xô bị bắn hỏng - Đèo Salang - 1985

Thế nhưng ta nói với lương tâm bằng ngôn ngữ nào? Dĩ nhiên khác hoàn toàn khi ta giao tiếp với những người quanh mình? Mình thích giao tiếp, nó không bị ngữ pháp, chính tả gò bó, nó tuôn chảy tự do, như một buổi hội hè. Từ cú pháp tới ngữ điệu, trọng âm, những lời giao tiếp thuật lại chính xác những cảm giác từng trải. Mình dõi theo cảm giác chứ không theo sự kiện, dõi theo cách mà những cảm xúc trong con người chúng ta phát triển thế nào, chứ không theo biến cố khách quan. Có thể những gì mình đang làm giống như công việc của một sử gia, nhưng là sử gia của những gì không để lại. Chuyện gì xảy ra với những sự kiện lớn? Chúng được đi vào sách sử. Tuy nhiên những thứ nhỏ bé, nhưng lại trọng đại đối với những con người nhỏ bé, lại biến mất không dấu vết. Hôm nay một thanh niên (vì sự mong manh và vẻ ngoài ốm yếu nên trông cậu ây chẳng giống một người lính chút nào) đã kể: thật lạ lùng, đồng thời thật hấp dẫn, khi cùng nhau giết người. Và cảm giác sợ hãi làm sao khi bắn súng.

Chẳng lẽ điều đó sẽ được ghi lại trong sách sử? Với nỗi tuyệt vọng, mình chỉ làm đúng một việc (với những tác phẩm trước đây) là gói gọn lịch sử xuống tầm câu chuyện một con người. Mình đã nghĩ về việc không thể viết một quyển sách về chiến tranh trong thời chiến. Lòng thương hại, sự căm thù, nỗi đau mất mát, và tình bạn sẽ cản trở. Và từ những lời động viên từ những bức thư từ quê hương, con người ta như được tiếp cái ham muốn sống vô cùng. Họ kể rằng khi bắn giết, không ai dám nhìn vào mắt đối phương, thậm chí là mắt của con lạc đà. Ở đây không có ai vô thần. Tất cả đều mê tín.

Mình bị chỉ trích (đặc biệt là các sĩ quan, những người lính thì hiếm hơn) rằng thân đàn bà con gái chưa bao giờ cấm súng và bị chĩa súng vào, làm sao có thể viết về chiến tranh? Mà nếu có thể viết như thế thì lấy đâu ra trải nghiệm mà viết cho đúng?

Con người ấy đâu rồi, kẻ có ý nghĩ rằng chiến tranh chỉ mang đến cho anh ta sự khổ đau? Mình chưa tìm ra người đó. Nhưng hôm qua ở trước cửa bộ tham mưu có xác một con chim lạ. Lạ thay, những người lính tiến tới chỗ nó, thử đoán xem nó là chim gì, và mủi lòng thương.

Có một nguồn cảm hứng nào đó trên những gương mặt tử thi. Mình không cách nào quen được với sự điên rồ của những vật phẩm bình thường trong chiến tranh, dù chỉ là nước, thuốc lá, bánh mì… Đặc biệt là khi cùng đám lính rời khỏi doanh trại và tiến lên những rặng núi. Ở đó con người một mình đối mặt với thiên nhiên và phe địch. Liệu đạn có bay qua đầu mình hay không? Ai bắn phát súng đầu tiên – ta hay địch? Ở đó ta chỉ thấy con người trong bản chất tự nhiên hoang dã, không phải là xã hội loài người.

Còn ở Liên Xô, trên truyền hình người ta chiếu cảnh quân ta trồng cây trên những con đường hữu nghị, những con đường mà ở đây chả ai đi qua bao giờ.

Ngày 21 Tháng 9 Năm 1986

Ở xa đâu đó, bệ phóng tên lửa Grad đang hú lên rầm rĩ. Thật là những tiếng ồn ghê rợn, thậm chí ở một khoảng cách xa như thế.

Sau những cuộc chiến tranh vĩ đại của thế kỷ XX và những vụ thảm sát hàng loạt, để viết về những cuộc chiến tranh hiện đại nhưng quy mô nhỏ như ở Afghanistan, ta cần có những quan điểm đạo đức khác. Cần những gì đó nhỏ bé, mang tính riêng lẻ. Một người. Có thể là người “duy nhất” đối với ai đó. Không phải đối với đất nước, mà là đối với mẹ, với vợ, với con cái mình. Làm thế nào để chúng ta dành cho mình cách nhìn bình thường đó?

Mình cũng quan tâm cả về cơ thể con người, như là mối liên hệ giữa thiên nhiên với lịch sử nhân loại. Tất cả những tiểu tiết như thế đều quan trọng: như màu máu biến đổi thế nào dưới ánh mặt trời, con người ta trước lúc rời khỏi cõi đời. Cuộc sống bản thân nó đã đẹp đến khó tin, và dù nghe thật tàn nhẫn, nỗi đau khổ của con người cũng đặc biệt mang tính nghệ thuật, nhưng là mặt tối của nghệ thuật. Mới ngày hôm qua mình thấy mọi người thu nhặt mảnh thi thể của những người lính bị nổ tan xác do mìn chống tăng. Mình đã có thể không nên đến xem, nhưng mình đã đi, để bây giờ viết.

Thế nhưng có cần phải tới đó hay không? Mình nghe các sĩ quan cười nhạo sau lưng mình: “Trông cô nhà báo kia sợ phát ngất kìa, ôi Chúa ơi!” Mình đi nhưng không có chút dũng khí nào để chuẩn bị, nên đã ngất ở đó. Có thể là vì nóng, cũng có thể vì sốc. Nhưng cốt lõi mình chỉ muốn sự thực.

Ngày 23 Tháng 9 Năm 1986

Mình lên ngồi trên trực thăng. Từ trên cao có thể thấy hằng trăm quan tài kẽm đang chờ để đựng thi thể tử sĩ, chúng đẹp và lấp lánh một cách ám ảnh dưới ánh mặt trời.

Đôi khi tác giả tự dưng bắt gặp một thứ gì đó bất thường, sẽ lập tức xuất hiện ý nghĩ: Chà, tầm viết lách của mình thật là có giới hạn. Bằng việc nhớ và ghi lại các sự kiện, ta chỉ có thể mô tả những gì thấy bằng mắt, nhưng ai thèm đọc về một bản báo cáo tỉ mỉ những chuyện đã xảy ra chứ? Họ cần một thứ gì đó khác. Những khoảnh khắc đáng nhớ được lột tả, được lôi ra từ cuộc sống thường ngày tẻ nhạt.


Bên ngoài trạm quân y trên cứ điểm - Đâu đó ở gần Bamyan - 1986

Ngày 15 Tháng 5 Năm 1988

Tất cả những gì chúng ta biết về cuộc chiến này, là nó đã kéo dài gấp đôi Thế chiến thứ hai, là điều mà nhà nước cho là “an toàn” để cho nhân dân biết. Mọi người đã được che mắt khỏi việc tự nhận thức về bản ngã con người, và khỏi nỗi sợ hãi về những hậu quả mà sự hiểu biết như vậy sẽ đem lại. “Các nhà văn Nga luôn luôn hơn quan tâm đến sự thật hơn là cái đẹp”, Nikolai Berdyaev đã viết như thế. Toàn bộ cuộc sống của chúng ta là dành cho việc tìm kiếm sự thật, đặc biệt là thời nay, cho dù ở chỗ làm việc, hoặc trên đường phố, tại các buổi trình diễn, thậm chí tại các bữa tiệc tối. Và vì sao chúng ta phải suy nghĩ miên man như vậy? Tất cả là do câu hỏi: “Chúng ta là ai, và chúng ta sẽ đi đến đâu?” Và câu hỏi đó đã khiến chúng ta nhận ra rằng những sự huyễn hoặc về bản thân còn có giá trị lớn lao hơn so với bất cứ cái gì khác, kể cả cuộc sống con người. Mọi người đều tin vào một thông điệp từ lâu đã được in hằn trong tiềm thức, rằng người Xô viết là bậc nhất về mọi mặt, tốt nhất, công bằng nhất, trung thực nhất. Và bất cứ ai dám bày tỏ sự nghi ngờ nhỏ nhất, đó là kẻ phản bội, một tội lỗi không thể tha thứ!

Trích đoạn một đoạn văn trong sách sử mình đang đọc:

“Vào ngày 20 tháng 1 năm 1801, một lực lượng viễn chinh Cossack, dưới sự chỉ huy của tướng Vassily Orlov, được lệnh chỉ huy cuộc chinh phục Ấn Độ. Họ được giao trong vòng một tháng phải đến tập trung ở Orenburg (ở vùng Urals), và thêm ba tháng nữa để đến được sông Ấn thông qua Bukhara và Khiva. 30.000 lính Cossacks này đã vượt sông Volga và tiến sâu vào thảo nguyên Kazakhstan.”

Từ báo Sự Thật, ngày 7 tháng 2 năm 1989;

“Những cây hạnh nhân đang nở hoa ở Termez [một thị trấn của Liên Xô ở sát biên giới Afghanistan]; nhưng ngay cả khi không có một phép màu hào phóng nào được ban từ mẹ Thiên nhiên, cư dân của thị trấn cổ kính này cũng không bao giờ có thể quên được những ngày tháng Hai vui vẻ và huy hoàng nhất trong cuộc đời họ.”

“Một dàn nhạc đã chơi khi Tổ quốc chào đón sự trở về của những người lính. Các chàng trai của chúng ta đã trở về nhà sau khi hoàn thành nghĩa vụ quốc tế. Trong mười năm qua, những người lính Liên Xô ở Afghanistan đã sửa chữa và tái thiết hàng trăm trường học và các trường cao đẳng, hơn 30 bệnh viện và một số trường mẫu giáo, khoảng 400 dãy nhà chung cư và 35 nhà thờ Hồi giáo. Hơn nữa, quân ta đã lấp những cái giếng cũ và đào gần 1000 km kênh mương dẫn nước. Ngoài ra, họ cũng tham gia bảo vệ các cơ sở quân sự và dân sự ở Kabul.”

Lại phải trích Berdyaev: “Từ trước đến nay, tôi vẫn là chính mình, không chịu quỳ gối trước ai cả.’ Một điều nghe có vẻ trái ngược với những văn nghệ sĩ ở Liên Xô. Trong thời đại ngày nay, “sự thật” luôn luôn phải phục vụ một ai đó hoặc một cái gì đó - lợi ích của chính quyền Cách mạng, hoặc chế độ chuyên chính của giai cấp vô sản, hoặc cho một nhà độc tài tàn bạo nào đó, hoặc Đảng, hoặc kế hoạch năm năm lần thứ nhất hoặc thứ hai hoặc kế hoạch kinh tế mới nhất từ Ủy ban kế hoạch Nhà nước... Lại nhớ Dostoevsky từng nhấn mạnh rằng: 'Sự thật quan trọng hơn định mệnh của nước Nga rất nhiều'.

Mình đã tự vấn và hỏi những người khác nữa mỗi câu hỏi này: Lòng cương trực của mỗi người chúng ta đã bị dập tắt như thế nào? Làm sao mà “những vị kia” có thể biến những thanh niên bình thường nơi ta sống thành những kẻ giết người và làm bất cứ điều gì họ muốn với những người còn lại?


Bạn chiến đấu với súng của bọn phỉ - Kandahar - 1985

Nhưng mình không ở Afghanistan để đánh giá những gì đã thấy và nghe được. Mục đích chỉ đơn thuần là phản ánh thế giới như đúng thực tế. Nắm bắt được tình hình cuộc chiến vào lúc này có nghĩa là phải đối mặt với những vấn đề rộng lớn hơn nhiều, những vấn đề liên quan đến sự sống và cái chết của nhân loại. Con người cuối cùng đã đạt được tham vọng xấu xa là có thể tự hủy hoại chính mình chỉ bằng một quả bom, một đầu đạn tên lửa.

Vào lúc này, sự thật đã rõ rành rành về con số 100.000 lính của Liên Xô được triển khai ở Afghanistan mỗi năm. Trong mười năm, tổng cộng sẽ là 1.000.000 người cả thày. Cuộc chiến có thể được mô tả bằng những thuật ngữ thống kê gọn gàng: rất nhiều đạn dược và trái pháo đã được sử dụng, rất nhiều xe bọc thép và máy bay trực thăng bị phá hủy, rất nhiều bộ quân phục bị xé thành từng mảnh. Tất cả những điều này đã khiến chúng ta phải trả giá bao nhiêu? Năm mươi ngàn người chết và bị thương. Một con số mà người dân có thể tin hoặc không, bởi vì ai cũng đều biết các quan chức có thể đếm giỏi đến mức nào. Những người chết trong Thế chiến thứ Hai vẫn đang được đếm và chôn cất...

Một số lời nói:

“Ngay cả khi đêm xuống tôi cũng gặp ác mộng về máu, thậm chí tôi như phát điên khi vô tình dẫm phải một con bọ...”

“Tôi nên kể tất cả chuyện này với ai? Ai muốn nghe cơ chứ?”

Như nhà thơ Boris Slutsky đã viết lại:

‘Khi chúng tôi trở về sau chiến tranh, tôi thấy chúng tôi bị bỏ lại phía sau. Tôi đã thuộc lòng bảng Nguyên tố hóa học, và vẫn còn bị những triệu chứng của bệnh sốt rét hành hạ. Cách đây không lâu, tôi đã phải nhổ đi một vài chiếc răng, và trong cơn đau đớn và choáng váng, tôi cố thều thào. Lúc đấy cái bà nha sĩ ném cho tôi một cái nhìn vẻ ghê tởm: “Miệng đầy máu mà vẫn muốn nói chuyện à…” Lúc đó tôi nhận ra rằng mình sẽ không bao giờ có thể kể lại một cách trung thực về bất cứ điều gì từng xảy ra. Mọi người đều nghĩ về chúng tôi, lính Afghantsi với hình ảnh: miệng đầy máu, và chúng tôi muốn thanh minh về cái gì đó.”

Đó là lý do tại sao mình sẽ không sử dụng tên thật của mọi người trong cuốn sách này. Một số người yêu cầu giữ bí mật, và có những người mà mình không thể bảo là “miệng đầy máu mà lại muốn nói chuyện” được. Phải chăng chúng ta sẽ phản ứng trước cơn khủng hoảng đạo đức này như trong quá khứ, bằng cách đổ lỗi cho một số cá nhân để minh oan cho những người còn lại? Không hề, tất cả chúng ta đều phải nhận trách nhiệm với việc này.


Bãi đáp trực thăng - Kunduz - 1986
 
Sửa lần cuối:
NGÀY ĐẦU TIÊN

“Anh em sẽ nghe có giặc giã và tin đồn giặc giã; coi chừng, đừng khiếp sợ, vì những việc đó phải xảy ra, nhưng chưa phải là tận cùng” – Matthew – 24:6


Một buổi sáng sớm, chuông điện thoại reo như một tràng tiểu liên đánh thức tôi.

“Bây giờ cô phải nghe tôi nói!” Đầu dây bên kia không giới thiệu bản thân. “Tôi đã đọc những điều vu khống mà cô đã viết. Tôi cảnh báo cô...”

“Nhưng anh là ai mới được?”

‘Một trong những người mà cô đã mô tả trong mấy cái bài viết vớ vấn kia. Chúa ơi! Tôi ghét những thằng, những con nào ra vẻ cầu hòa biết bao! Cô đã bao giờ thử leo núi trong bộ chiến phục được trang bị đến tận răng dưới tiết trời oi bức chưa? Hay bên trong xe bọc thép ở trời nắng 50 độ C? Cô đã từng ngửi cái mùi phấn hoa của gai sa mạc lảng vảng trong mũi cả đêm chưa? Nếu chưa thì hãy im lặng và để chúng tôi yên! Đây là chuyện của chúng tôi và không liên quan gì đến cô. Cô muốn dính vào làm gì? Cô là đàn bà, lo mà sinh con đẻ cái đi!”


Bạn chiến đấu - 1984

“Tại sao anh không xưng danh?”

‘Đừng có mà bới cái chuyện của tôi ra nữa! Người bạn thân nhất của tôi, thằng ấy với tôi giống như anh em ruột thịt... Tôi đã mang xác nó về sau một cuộc đột kích, trong một chiếc túi nhựa. Đầu, tứ chi của nó bị chặt, da thì bị lột hết. Cô nghe không lầm đâu, cái xác không còn một mành da nào. Nó từng chơi violin và viết thơ. Lẽ ra bây giờ dăm ba cái câu chuyện chiến trường này phải được thằng bạn tôi viết chứ đếch phải cô... Mẹ nó phát điên hai ngày sau đám tang. Bà già chạy đến nghĩa trang vào ban đêm và cứ nằm sát bên mộ. Còn cô ấy, đừng có mà thó mũi vào! Chúng tôi là những người lính, được cử đến đó để tuân theo mệnh lệnh và tôn trọng lời thề danh dự quân đội của mình. Tôi đã hôn lá cờ Liên Xô...”

“Tôi kể anh nghe một đoạn trong phúc âm Matthew nhé, “Đức Jesus đáp: “Anh em hãy coi chừng, đừng để ai lừa gạt anh em,..”

“Ái chà, giờ lại giở trò chữ nghĩa tôn giáo ra mà nói chuyện à! Với tầm nhìn đi trước mười năm! Tất cả lũ ký giả như cô đều muốn ra vẻ thanh cao ta đây. Mẹ kiếp! Cô thậm chí không biết một viên đạn bay như thế nào. Cô chưa bao giờ bắn bất cứ ai... Nói cho cô biết, tôi không sợ đâu, tôi không quan tâm đến Tân Ước hay cái gọi là sự thật của cô. Tôi đã mang sự thật của mình về trong một chiếc túi nhựa… Đầu, tay, chân, toàn bộ bị lột da… Cút xuống địa ngục đi!’

Anh ta dập điện thoại xuống cái rụp, nghe như một tiếng pháo nổ từ xa.

Dù sao đi nữa, mình thấy có lỗi vì hai bên đã không trải lòng. Anh cựu binh này có thể đã trở thành nhân vật chính của cuốn sách này, một người đàn ông có vết thương lòng sâu sắc.

Nhưng đây không phải là câu chuyện của riêng ai.


Sửa chữa máy bay SU-17 - Kabul - 1986
 
Sửa lần cuối:
Binh nhì, Tiểu đoàn Xung kích

Tớ có thể nghe thấy những giọng nói, nhưng những giọng nói đó không thuộc về một bóng hình cụ thể nào, dù tớ đã cố gắng hết sức để nhận ra chúng. Chúng thoắt ẩn thoát hiện… Tớ cứ đinh ninh rằng mình sắp chết - và rồi mở mắt ra.

Tớ đi đến Tashkent mười sáu ngày sau khi bị thương. Đầu đau nhức mỗi khi tớ cố thì thầm, vì mình không thể nói thành tiếng. Tại bệnh viện ở Kabul, họ đã mổ hộp sọ của tớ, chắc múc ra một tí óc và xương. Đám bác sĩ ghép lại bàn tay trái bằng ốc vít thay vì đốt ngón tay. Điều đầu tiên tớ cảm thấy là buồn. Buồn vì sẽ không bao giờ quay lại đó, không bao giờ gặp bạn bè, không bao giờ được tập thể dục trên những thanh xà ngang đó nữa.

Tớ đã trải qua khoảng thời gian, có lẽ thêm 15 ngày nữa là tròn hai năm, ở nhiều bệnh viện khác nhau. Mười tám đợt phẫu thuật, trong đó có bốn đợt phải gây mê toàn thân. Các sinh viên y khoa viết bài báo cáo về sức khỏe của tớ, những gì còn và mất. Tớ không thể tự cạo râu được nên phải để các thanh niên làm hộ. Trước tiên, họ đổ một chai nước hoa lên người tớ, nhưng tớ đã hét lên yêu cầu thêm chai nữa vì tớ không ngửi thấy mùi gì cả. Họ lấy hết mọi thứ trên bàn cạnh giường ngủ của tớ, xúc xích, dưa chuột muối, mật ong, đồ ngọt... Tớ vẫn có thể nhìn thấy màu sắc và có thể nếm được mọi thứ nhưng tớ đã mất khứu giác, vì thế mà tớ như phát điên đến nơi. Khi mùa xuân đến, lúc cây cối đâm chồi nảy lộc, tớ có thể nhìn thấy nhưng không ngửi được. Bên bệnh viện đã loại bỏ khoảng 1,5 cm khối não tớ, bao gồm cả một số loại dây thần kinh trung ương liên quan đến khứu giác. Ngay cả bây giờ, năm năm sau, tớ vẫn không thể ngửi thấy mùi hoa, khói thuốc lá hay nước hoa của phụ nữ.

Tớ có thể nhận ra mùi nước hoa nếu ở mức độ nồng nặc nhưng chỉ khi nhét cái chai ngay dưới mũi mình. Chắc là một phần nào đó khác của bộ não đã cố gắng đảm nhiệm cái việc ngửi tốt nhất có thể.

Trong bệnh viện tớ nhận được một lá thư từ một người bạn chiến hữu. Anh ấy nói với tớ rằng chiếc xe BTR của cả bọn đã bị vướng mìn Ý và nổ tung. Chính mắt anh ấy nhìn thấy tớ bị thổi bay theo hướng đầu máy.

Tớ được xuất viện và sau đó được trả 300 rúp mỗi tháng. Mức trợ cấp nhà nước cho phép là 150 rúp cho vết thương nhẹ và 300 cho vết thương nặng. Sau đó, đành phải sống bám vào bố mẹ. Tự dưng bổ tớ lại thêm một gánh nặng, nên đầu tóc của ông già trở nên xám xịt và còn bị dính cao huyết áp nữa.

Tớ từ bé chưa bao giờ đến Afghanistan. Rồi khi xuất ngũ, tớ lại thấy toàn bộ cuộc đời mình từ một góc nhìn khác.

Tớ theo lệnh động viên được điều đến Afghanistan vào năm 1981. Chiến tranh đã diễn ra được tầm hai năm nhưng công chúng ở quê nhà không biết nhiều về nó, còn chính phủ cứ giữ kín về những gì họ biết. Ví dụ, trong gia đình của tớ, ai cũng cho rằng chính phủ sẽ không đưa lực lượng quốc phòng đến một quốc gia khác trừ khi điều đó thực sự cần thiết. Bố tớ nghĩ vậy, hàng xóm láng giềng cũng nghĩ vậy. Thực sự khó tìm được ai bất đồng quan điểm. Các bà các cô thậm chí không nhỏ lệ khi tớ lên đường, vì ngày đó chiến tranh dường như đang ở một nơi rất xa và không hề đáng sợ. Đó là chiến tranh nhưng không phải chiến tranh của mình, và đó là một thứ gì đó xa xôi, không có thi thể hay tù nhân.

Vào thời đó, chưa ai được tận mắt chứng kiến những chiếc quan tài kẽm. Sau đó bọn tớ được biết rằng quan tài đã được chuyển đến thị trấn nơi đóng quân, và việc chôn cất được tiến hành bí mật vào ban đêm. Trên bia mộ có khắc chữ “đã từ trần”, chứ không phải “đã hy sinh”, nhưng không ai hỏi tại sao tất cả những thanh niên mười tám tuổi này đều ra đi đường đột như vậy. Do uống quá nhiều vodka hay bị cúm? Hay ăn quá nhiều cam nên bị nghẹn? Những người thân yêu của các đồng chí này đã khóc và những người còn lại cứ tiếp tục làm thinh, cho đến khi chính họ bị dính cảnh đó. Báo chí nói về việc bọn lính chúng tớ đã xây những cây cầu và trồng những hàng cây để tạo nên “Những con đường hữu nghị” theo đúng nghĩa đen, và về việc các bác sĩ của Tổ quốc đã chăm sóc phụ nữ và trẻ em Afghanistan như thế nào.

Tại trại huấn luyện ở Vitebsk, mọi người đều biết là mình đang chuẩn bị đến Afghanistan. Một anh chàng thú nhận là sợ cả bọn sẽ bỏ xác nơi xứ người. Tớ khinh hắn ra mặt. Ngay trước khi lên đường, một tên khác đã muốn trốn. Đầu tiên ông nhãi này nói mình bị mất thẻ Đoàn viên! Sau đó, khi cái thẻ được tìm thấy, đồng chí lại viện cớ rằng vợ mới cưới sắp đẻ. Tớ tưởng thằng ấy mất trí rồi. Chúng ta được giao nhiệm vụ hỗ trợ một cuộc cách mạng chuyên chính vô sản cơ mà! Đó là những gì bọn tớ đã được nghe và tin răm rắp. Lý tưởng cao cả đấy!​


Ba người lính - Kabul - 1988

Khi một ai đó bị trúng đạn, cậu sẽ nghe thấy cái âm thanh đặc trưng. Đó là thứ âm thanh không thể quên được, giống như một cái gáo nước lạnh văng thẳng vào mặt. Người bạn bên cạnh cậu ngã úp mặt xuống cát, cái thứ cát sa mạc có vị đắng như tro. Cậu lật ngửa chiến sĩ đó lại và thấy điếu thuốc cậu vừa đưa cho hắn đang mắc kẹt giữa hai hàm răng và vẫn còn đang cháy dở. Lần đầu tiên khi tình huống đó xảy ra, cậu sẽ phản ứng như thể mình đang mơ. Toàn động tác cơ bản xảy ra sau đó, chạy, kéo xác đồng đội và bắn trả, và sau đó cậu không thể nhớ bất cứ điều gì về nó và cũng không thể kể lại cho người khác nghe. Nó giống như một cơn ác mộng mà cậu chứng kiến đằng sau một ô cửa kín vậy, rồi thức dậy trong nỗi sợ hãi và không biết nguyên nhân tại sao. Thực tế là, để trải nghiệm hoàn toàn nỗi kinh hoàng nơi chiến trường, cậu bắt buộc phải ghi nhớ và làm quen với nó. Trong vòng hai hoặc ba tuần, cậu sẽ vất bỏ tất cả những lối suy nghĩ thơ ngây trước kia, còn để lại trong người mỗi cái danh xưng. Lúc đó là mình đã trở thành một người khác. Con người mới này không sợ cảnh xác chết, nhưng bình tĩnh hơn (và cũng hơi bực tức), tự hỏi làm thế nào để kéo cái xác xuống núi và vác đi vài cây số trong cái nóng như vậy.

Lúc đó không cần phải tưởng tượng như chúng ta đang ngồi và nói chuyện ở đây. Con người mới của cậu đã biết cái mùi tởm tởm của khúc ruột bị lòi ra ngoài, hay mùi phân và máu người hòa lẫn vào nhau. Trí tưởng tượng đi đâu mất. Cậu sẽ thấy: trong cái vũng thép chảy của xe tăng bị trúng RPG, những sọ người như đang nhăn nhở cười trong lửa, tưởng như mới vài giờ trước đây mấy đồng chí đó không la hét, mà chết với tiếng cười. Tất cả bỗng nhiên thật bình thường và đơn giản làm sao. Rồi một cơn phấn khích xuất hiện khi thấy mình không nằm trong đám liệt sĩ đó! Mọi thứ diễn ra chớp nhoáng. Cái sự thay đổi suy nghĩ hoàn toàn như thế đến với tất cả mọi người rất nhanh luôn.

Cái chết không có gì khó hiểu đối với những ai bị cuốn vào cuộc chiến. Giết chóc đôi khi đơn giản là chỉ cần bóp cò. Bọn tớ được dạy rằng “ai bắn trước thì sống”. Đó là quy luật của mọi cuộc chiến tranh. “Các đồng chí cần phải làm hai việc thôi, chạy thật nhanh và cố bắn cho trúng, còn chiến thuật và chiến lược là việc của tôi,” Thủ trưởng nói như vậy với cả bọn. Bọn tớ chĩa súng và bắn vào những chỗ được yêu cầu, đúng như những gì được dạy ở trại huấn luyện. Cả bọn đã được dạy để đối phó với mọi thứ, và tớ thực sự không quan tâm nếu mình có giết một đứa trẻ. Kẻ địch có thể là bất cứ ai, bất kể nam nữ hay già trẻ. Một lần, đoàn của bọn tớ đang đi tuần qua một cái làng (kishlak trong tiếng Pashto), thì chiếc xe dẫn đầu bị hỏng. Tay lái ra trước tiên và vừa nhấc cái nắp capô lên thì có một thằng bé khoảng mười tuổi lao ra và đâm vào sau lưng, trúng chỗ trái tim anh ấy. Thế là gục ngay luôn lên cái động cơ đang bốc khói. Cả bọn nã tiểu liên và biến thằng bé thành một cái tảng thịt đầy lỗ. Nếu được cho phép, chắc cả ngôi làng đó bị thổi bay luôn. Tất cả những gì bọn tớ mong muốn là sống sót. Không có lúc để đắn đo, vì cả bọn đều đã ít nhất là mười tám hay hai mươi tuổi. Tớ đã quen với việc nhìn cái chết của người khác, nhưng chính bản thân mình cũng sợ chết. Tớ đã thấy những người đàn ông có thể trở thành cát bụi, trở thành hư vô, như thể họ chưa từng tồn tại. Khi điều đó xảy ra, họ đặt bỏ những bộ đồng phục rỗng không vào trong quan tài và ném vào một vài nắm đất của xứ Afghanistan, để có cảm giác là có xác bên trong và mang về nước... Tớ chì muốn sống sót. Chưa bao giờ, từ lúc cha sinh mẹ đẻ đến giờ, tớ lại ham sống đến vô cùng như lúc ở Afghanistan. Sau một trận chiến, cả bọn chỉ ngồi nhìn nhau và cười như chưa bao giờ được cười. Ai ai cũng thích những câu chuyện cười, và chuyện càng cũ càng tốt.

Ví dụ như: Có tay buôn lậu ngoại tệ này (Фарцовщик – Fartsovshik) mò đến vùng chiến sự. Điều đầu tiên hắn làm là tìm xem một tù binh có thể đổi lấy được bao nhiêu tờ cheki (một tờ chi phiếu ngoại tệ, chuyên dùng để mua hàng trong các cửa hàng mậu dịch địa phương). Đáp lại là tám tờ cheki. Hai ngày sau, có một đám đông cáu bẩn xuất hiện trong khu đồn trú, đó là tên buôn với khoảng 200 tù nhân bị xích phía sau. Người bạn của hắn nói: “Bán tao một tên, giá bảy tấm cheki, không thương lượng.” “Đếch có chuyện đấy”, tên gian thương trả lời, “Tao đã phải trả chín tờ.’

Đám lính bọn tớ có thể nghe chuyện cười ngớ ngẩn đó hàng trăm lần mà vẫn cười, và sẽ cười vào bất kỳ tình huống ngu ngốc nào, cho đến sái quai hàm thì thôi.

Có tên bắn tỉa của bên phỉ, đang nằm trong chỗ trú tính toán thù lao của mình. Hắn nhắm đến hai mục tiêu: Ba ngôi sao nhỏ - Trung úy, trị giá 50.000 Afghani. Diệt luôn! Một ngôi sao lớn – đại tá, 200.000 Afghani. Diệt luôn! Hai ngôi sao nhỏ - Thiếu úy. Diệt nốt! Tối hôm đó, tên sếp trả tiền cho tay bắn tỉa vì đã diệt được trung úy, và đại tá. Đến đoạn thiếu úy thì “Cái gì? Mày đã xử tên thiếu úy à? Đầu mối làm ăn đó. Giờ thì ai sẽ bán sữa đặc và chăn ấm cho cả làng đây? Lính đâu, treo mẹ cổ nó lên!”

Chúng tớ đa phần nói nhiều về tiền bạc hơn là về cái chết. Tớ về nước không mang theo bất cứ thứ gì, ngoại trừ cái vết sẹo trên đầu, chỗ mà đám quân y đã múc óc ra. Một số người mang theo đồ sứ, đá quý, đồ trang sức và thảm. Họ nhặt chúng trong trận chiến, khi đi vào làng, hoặc mua chúng. Hoặc nếu không thì trao đổi. Ví dụ, một băng AK đáng giá một bộ trang điểm cho phụ nữ, bao gồm mascara, phấn mắt và phấn phủ. Tất nhiên các viên đạn trong băng đã được luộc chín, nên khi bắn, nghe đâu đầu đạn sẽ chỉ tòi ra khỏi nòng và không thể giết ai được. Cả đội đổ đầy nước vào một cái xô hoặc một cái bát, cho đống đạn vào, đun sôi trong vài giờ và bán chúng vào ngay buổi tối hôm đó. Mọi người đều giao dịch và đổi chác, các sĩ quan và lính trơn, những anh hùng cũng như những tên hèn. Dao, bát, thìa, nĩa, cốc, ghế đẩu, búa, tất cả đều bị lấy ra khỏi căng tin và doanh trại. Lưỡi lê biến mất khỏi tiểu liên, gương trên ô tô, phụ tùng thay thế, huy chương... Bạn có thể bán bất cứ thứ gì, ngay cả những thứ vất đi từ đồn trú, vỏ lon, báo cũ, đinh gỉ, mảnh gỗ dán và túi nhựa. Họ bán theo xe tải, giá được trả tùy theo số cân phế liệu. Đó hẳn là làm giàu từ chiến tranh.​
 
Binh nhì, Tiểu đoàn Xung kích (tiếp)

Bọn cựu binh chúng tớ được gọi là Afgantsi. Tớ thực sự ghét cái tên này. Nó chẳng khác gì việc được dán nhãn, làm mình trở nên khác biệt với những người xung quanh. Nhưng khác ở chỗ nào? Tớ là anh hùng, hay là một kẻ ngốc để người ta nhìn chằm chằm? Hay thậm chí là tội phạm? Mọi người đã nói rằng toàn bộ cuộc chiến là một bước đi sai lầm về chính trị; chúng nó có thể đang thì thầm vào lúc này, nhưng chẳng bao lâu nữa chúng nó sẽ sủa vang lên từ trên nóc nhà xuống. Tớ và đồng đội đã để lại máu của mình ở đó. Anh em đã được trao những huy chương mà chẳng ai thèm đeo và thậm chí sẽ trả lại, những huy chương kiếm được một cách trung thực trong một cuộc chiến không trung thực. Mọi người được mời phát biểu ở trường học, nhưng biết nói gì đây? Tất nhiên chắc chắn không phải bô bô về cái hiện thực nghiệt ngã của chiến tranh. Tớ có nên nói với họ rằng mình vẫn sợ bóng tối và khi có thứ gì đó rơi xuống “rầm” một cái ở bên, tớ sẽ giật bắn mình không? Làm sao mà những tù nhân mà anh em bắt được, bằng cách nào đó lại không thể đến được tới sở chỉ huy trung đoàn? Tớ nhìn thấy chúng bị dẫm đạp và nghiền nát xuống đất theo đúng nghĩa đen. Trong một năm rưỡi, tớ không thấy một thằng phỉ nào bị giam mà còn sống cả, chỉ có những đứa đã chết. Tớ không thể kể cho đám học sinh nghe rõ về bộ sưu tập tai người và các chiến tích khác, đúng không? Hay những ngôi làng trông giống như cánh đồng hoang bị xới tung, sau khi cả bọn bắn phá xong?​


Lính trên phố - Kabul -1988

Không, lũ giáo viên và đám học sinh cần những anh hùng, nhưng tất cả những gì tớ có thể nhớ là những gì đã bị phá hủy và những cảnh bắn giết. Nhưng mặt khác thì, anh em cũng đã xây dựng nhiều công trình dân sinh và tặng quà cho dân địa phương. Tất cả những ký ức tốt xấu trộn lẫn với nhau và tớ vẫn không thể phân biệt rạch ròi được. Nên tớ sợ những ký ức như vậy và cố chạy trốn khỏi chúng. Tớ chưa thấy ai từ Afghanistan trở về mà không hút thuốc và uống rượu. Thuốc lá ở đây nhạt nhẽo không quen, phải là cái nhãn hiệu Okhotnichy mà cả bọn đã hút ở đó cơ. Anh em gọi vui nó là “Cái chết từ tốn trong đầm lầy”.

Dù bạn viết gì, đừng viết về cái gọi là “tình huynh đệ Afgantsi” giữa chúng ta. Tớ chưa bao giờ được chứng kiến và sẽ chẳng bao giờ tin. Điểm chung duy nhất của cả bọn là đều sợ chết. Tất cả anh em đều bị lừa dối như nhau, nên ai cũng đều muốn sống sót và về nhà bình an vô sự. Và điểm chung của anh em khi trở về nhà là không có gì để gọi là để dành. Ai cũng có những vấn đề giống nhau: lương hưu thấp, khó khăn trong việc có được một căn hộ và một ít đồ đạc, không có thuốc men hay chân tay giả ... Nếu tất cả những điều đó được giải quyết ổn thỏa thì làm gì có cái gọi là “Câu lạc bộ cựu chiến binh Afghantsi”. Một khi tớ có được những thứ mình muốn, có lẽ là một cái tủ lạnh, máy giặt và một đầu video hãng Nhật – cho dù có phải chen lấn và đánh nhau bao nhiêu lần đi chăng nữa để có được chúng, thế là xong! Tớ sẽ chẳng cần câu lạc bộ nữa.

Đám trẻ phớt lờ bọn cựu binh chúng tớ. Hoàn toàn không có sự hiểu biết lẫn nhau. Trên danh nghĩa thì anh em có địa vị giống như các cựu chiến binh Hồng quân hồi Thế chiến thứ hai. Sự khác biệt duy nhất là, họ là những người bảo vệ Tổ quốc, trong khi bọn tớ bị coi như phát xít Đức - một thằng nhãi con đã dám nói thẳng với tớ như vậy! Bọn tớ ghét đám trẻ. Chúng nó chỉ dành thời gian để nghe nhạc, nhảy nhót với gái gú và đọc sách vô bổ, trong khi anh em phải ăn cái thứ gạo sống và bị mìn phạt chân phạt tay. Nếu chúng nó không ở đó, để nhìn thấy và trải qua những gì anh em đã thấy và trải qua, thì chẳng có ý nghĩa gì cả.

Bạn biết đấy, tầm mười năm nữa, khi bệnh viêm gan, tai biến, sốt rét và những bệnh khác bắt đầu trở nên nặng thêm, xã hội sẽ loại bỏ chúng tớ - tại cơ quan lẫn ở nhà. Không có một cơ quan xí nghiệp nào nhận bọn tớ. Và dĩ nhiên, anh em sẽ trở thành gánh nặng cho xã hội...

Cuốn sách này của bạn có ý nghĩa gì? Hay đúng hơn, là nó sẽ đem lại lợi ích gì? Nó sẽ không nhận được sự ủng hộ của đám cựu binh đâu. Bạn sẽ không bao giờ có thể tả lại chân thực, như thể bạn đã thực sự ở đó. Xác lạc đà và xác người nằm đều có máu đỏ. Và ai thèm nghe chứ? Chúng ta chỉ là những người xa lạ. Tất cả những gì tớ còn lại là nhà, cô vợ và đứa con sắp chào đời, thêm một vài người bạn ở bên kia đường. Từ lâu tớ chẳng tin được bất kỳ ai nữa rồi.​
 
Binh nhì, Đơn vị cơ giới

Báo chí địa phương lặng lẽ đưa tin trung đoàn chúng tôi đã hoàn thành đợt huấn luyện và diễn tập sử dụng đạn thật. Ai ai cũng đều tức tối khi đọc được điều đó, bởi vì thực chất cái 'đợt huấn luyện' này là hộ tống đoàn xe tải mà có thể đâm thủng cái capo bằng tua-vít dễ dàng, và hiển nhiên đó là mục tiêu hoàn hảo cho các tay súng bắn tỉa. Chúng tôi bị bắn mỗi ngày và không biết bao nhiêu người đã tèo.

Ông anh đi bên cạnh tôi đã bị trúng đạn cối và chết. Anh ấy là cái chết đầu tiên tôi thực sự được chứng kiến, mặc dù chúng tôi hầu như không biết nhau. Trên người anh bị vô số mảnh đạn cối găm vào và chết dần trong đau đớn. Mặc dù có đồng đội bên cạnh, nhưng anh ấy vẫn hét lên những cái tên mà chúng tôi không hề quen biết.

Đêm trước khi tôi đi Kabul, tôi suýt đánh nhau với một thằng, nhưng bạn của nó đã bênh và kéo nó ra xa: ‘Đánh nhau làm gì? Ngày mai thằng này sẽ bay tới Afghanistan.”

Trong lúc đánh nhau, anh em hay cầu nguyện (tôi không biết cầu nguyện với ai, có lẽ là Chúa): “Xin hãy để mặt đất, hay tảng đá này mở ra và nuốt chửng tôi”. Ban đêm, lũ chó dò mìn rên rỉ thảm thiết trong giấc ngủ. Chúng nó cũng bị dính thương vong như người. Cô sẽ thấy chúng nằm đó cạnh những người lính, chết và hai chân bị đứt lìa. Cô không thể phân biệt được máu chó hay máu người trên nền tuyết.

Chúng tôi chất vũ khí thu được thành một đống lớn: đồ Mỹ, Pakistan, Trung Quốc, Anh, thậm chí là hàng Liên Xô. Tất cả đều được dùng để giết chúng tôi. Nỗi sợ hãi mang tính con người hơn là sự dũng cảm, tôi thấy sợ và có lỗi, ít nhất là với bản thân mình, rồi tôi buộc nỗi sợ hãi tạm lắng vào trong tiềm thức của mình. Và tôi cố gắng xua đi ý nghĩ rằng cuối cùng mình có thể sẽ bỏ xác ở đây, nhỏ bé và tầm thường, cách nhà hàng nghìn cây số. Có những người đã bay vòng quanh Trái đất trong vũ trụ, nhưng ở dưới đây chúng ta vẫn tiếp tục giết hại lẫn nhau như tổ tiên đã từng làm hàng nghìn năm nay, bằng đạn, dao và đá. Trong các ngôi làng, họ giết đám lính chúng tôi bằng đinh ba và cuốc thuổng...

Tôi xuất ngũ vào năm 1981. Bầu không khí lúc về thật náo nhiệt. Chẳng phải mình đã thực hiện 'nghĩa vụ quốc tế' rồi sao? Tôi về đến Moscow vào một buổi sáng rất sớm bằng tàu hỏa. Tôi nóng lòng muốn về nhà, nên đã không sử dụng giấy phép di chuyển của quân đội để bắt chuyến tàu đêm. Tôi đến Mozhaisk bằng tàu địa phương, rồi từ đó đến Gagarin bằng xe buýt đường dài, đi nhờ xe đến Smolensk, rồi lên xe tải đến Vitebsk. Tổng cộng sáu trăm cây số, nhưng không ai bắt tôi phải trả một kopeck nào, khi họ biết tôi từ Afghanistan về. Tôi đã đi bộ thêm 2 cây cuối cùng để về đến nhà.


6 anh em trên một chiếc xe tăng - Kabul -1989

Quê nhà có mùi cây dương, tiếng của người lái xe điện đang bấm chuông, và bóng hình một cô bé đang ăn kem. Chúa ơi, tôi cực nhớ cái mùi đặc trưng của những cây dương đó! Ở đó có rất nhiều màu xanh lá cây. Ở Afghanistan, màu xanh lá cây tiềm tàng mối nguy hiểm từ bọn bắn tỉa. Tôi khao khát được nhìn thấy những cây bạch dương và lũ mèo con ở nhà. Cho đến bây giờ, khi tôi qua vệ đường, bên trong tôi vẫn nơm nớp lo sợ bị trúng đạn.

Trong suốt một năm, tôi sợ phải ra ngoài, trên người không có áo lính, không mũ sắt, không súng, tôi cảm thấy mình thật lộ liễu. Tôi gặp ác mộng, về cảnh có một khẩu súng chĩa vào trán tôi, đủ lớn để bắn nát óc mình, và thế là la hét và dậy vào nửa đêm, rồi nhảy vào góc tường. Khi điện thoại reo, mồ hôi tuôn ra trên trán tôi, tiếng chuông nghe như tiếng súng. Phải mất một lúc tôi mới trấn tĩnh lại và nói với bản thân rằng: “Mình đang ở nhà”.

Báo chí tiếp tục đưa tin, rằng “Người phi công trực thăng tên X đã hoàn thành khóa huấn luyện, đã được trao tặng huân chương Sao Đỏ, v.v..” Nhưng những gì đã xảy ra ở Afghanistan chính là điều thực sự khiến tôi được mở rộng tầm mắt. Người Afghanistan đã chữa cho tôi khỏi cái ảo tưởng, rằng mọi thứ ở đó đều ổn, còn báo chí và truyền hình đang nói lên sự thật. “Mình nên làm gì đây?” Tôi tự hỏi. Tôi muốn làm điều gì đó, như là đi đâu đó, rồi lên tiếng nói sự thật, nhưng mẹ tôi đã ngăn cản. “Thôi, cả đời đã sống như thế này rồi, ai thèm nghe mày nói.” Chính bà ấy nói như vậy.​
 
Y tá quân đội

“Mình quả thật là ngu ngốc khi đến đây”, tôi tự nhủ câu này với bản thân mỗi ngày, hoặc đúng hơn là hàng đêm, vì ban ngày tôi quá bận việc và có một suy nghĩ duy nhất: “Phải cứu càng nhiều người càng tốt”.

Tôi quá sốc vì những vết thương do đạn bắn, vì nhận ra rằng người ta đã phát minh ra những vũ khí như vậy để giết hại lẫn nhau. Vết thương nhìn ngoài tuy nhỏ thôi, nhưng bên trong thì ruột, gan và lá lách bị xoắn lại khủng khiếp. Rõ ràng bị trúng đạn kiểu này, nếu không chết thì khác gì tra tấn đâu. ‘Mẹ ơi!’ những bệnh binh liên tục hét lên trong cơn sợ hãi và đau đớn. Có lẽ những người lính này trong những giờ phút đau đớn nhất, luôn nghĩ đến những bà mẹ.


Mộ của lính Liên Xô gốc Kyrgyzstan tham chiến ở Afghanistan - 2023

Tôi chỉ muốn đi khỏi Leningrad trong trong vòng 1-2 năm, ở đâu cũng được. Cả chồng lẫn con tôi đã chết, nên không có gì để giữ tôi ở đó. Trái lại những ký ức đau thương trong quá khứ liên tục dày vò tôi. Leningrad là nơi chúng tôi gặp nhau, có nụ hôn đầu tiên, rồi sinh con đẻ cái..

“Đồng chí đến Afghanistan công tác chứ?” người tư vấn hỏi tôi.

“Cũng được,” tôi nói. Thành thật mà nói, tôi mong muốn thấy những kẻ còn khốn khổ hơn tôi. Giờ chắc chắn tôi đã được toại nguyện.

Chúng tôi được tuyên truyền rằng, đây là một cuộc chiến chính nghĩa, rằng chúng tôi đang giúp đỡ nhân dân Afghanistan chấm dứt chế độ phong kiến, xây dựng chủ nghĩa xã hội tươi đẹp. Có một sự im lặng đáng sợ từ cấp trên với tình trạng thương vong của binh lính, bên quân y ngầm hiểu rằng có khả năng rất nhiều bệnh truyền nhiễm ở đó, như là sốt rét, phát ban, viêm gan, v.v.

Chúng tôi đến Kabul vào đầu năm 1980. Bệnh viện dã chiến nơi tôi công tác trước đây từng là chuồng ngựa kiểu thực dân Anh. Không có dụng cụ gì cả: một ống tiêm dùng chung cho tất cả các bệnh binh, đám cán bộ phụ trách đã biển thủ hết cồn y tế nên phải dùng xăng để rửa vết thương. Những vết thương hồi phục chậm vì trong tình trạng yếm khí, nhưng ít ra cái nắng nóng vùng sa mạc đã giúp tiêu diệt vi khuẩn. Tôi nhìn thấy những thương binh đầu tiên của mình chỉ mặc mỗi bộ áo may ô, quần lót và ủng. Trong một thời gian dài, cơ sở không được tiếp nhận bộ đồ ngủ, dép, thậm chí cả chăn. Có một thanh niên, mà tôi vẫn nhớ rõ: cơ thể cậu ta uốn cong theo khắp hướng, như thể xương bị gãy vụn hết vậy, phải dùng dây thừng để cố định tứ chi. Hàng chục mảnh đạn đã được lấy khỏi cơ thể cậu ấy.

Tháng Ba năm đó, phía sau bệnh viện, chất đống tay, chân, thậm chí một số bộ phận cơ thể khác của thương binh Liên Xô bị cắt bỏ. Những xác chết với đôi mắt bị khoét và những hình ngôi sao được khắc trên da lưng và bụng của họ, rõ ràng là tác phẩm của bọn phỉ.

Dần dần đám y sĩ chúng tôi bắt đầu tự hỏi mình đến đây để làm gì. Tất nhiên, những câu hỏi như vậy không được các nhà chức trách thèm ghé tai đến. Không có dép lê hay quần áo ngủ, nhưng có rất nhiều biểu ngữ và áp phích, dày đặc khẩu hiệu chính trị, tất cả đều được mang từ Liên Xô sang. Ai biết được rằng, đằng sau những khẩu hiệu rực đỏ đó, là những khuôn mặt gầy gò, khốn khổ của những người lính. Tôi sẽ không bao giờ quên họ...

Hai lần một tuần, chúng tôi đều tham dự một buổi “học chính trị”, ở đó chúng tôi liên tục được nhắc nhở rằng mình đang thực hiện một nghĩa vụ thiêng liêng của mình là giúp đảm bảo an ninh tuyệt đối vùng biên cương Xô Viết. Điều khó chịu nhất trong cuộc sống quân ngũ là việc tố giác: thủ trưởng đã ra lệnh cho chúng tôi phải tố giác. Mọi chi tiết về từng bệnh binh và thương binh đều phải được báo cáo, hay còn được gọi là “thấu hiểu”. Quân đội phải có sức khỏe tốt và chúng tôi phải khai trừ cái sự thương hại ra khỏi tâm trí mình. Nhưng chúng tôi đã không tuân theo, vì chỉ có sự thương hại mới níu kéo đội ngũ quân y tiếp tục làm việc.


Một tay súng Mujahideen đang đội mũ sĩ quan Liên Xô chiếm đoạt được - Jajalabad - 1989

Chúng tôi đến để cứu người, để giúp đỡ, để thể hiện tình yêu thương của mình, nhưng sau một thời gian tôi nhận ra rằng trong mình chỉ còn lại cảm giác căm ghét. Tôi ghét cái thứ cát mềm mịn nhưng bỏng rẫy tay dưới ánh nắng sa mạc, ghét những bản làng, nơi mà chúng tôi có thể bị trúng đạn mỗi khi đi qua. Tôi ghét người dân địa phương, bắt gặp đang chở dưa gang ra chợ hoặc chỉ đơn thuần đứng trước cửa nhà họ. Ai mà biết được chúng đã làm gì vào đêm hôm trước? Có thể chúng đã giết một sĩ quan trẻ mà tôi từng quen biết ở bệnh viện, dựng lên hai căn lều đầy quân phỉ và đầu độc nguồn nước. Một anh lính nhặt chiếc bật lửa chạy pin kiểu Nhật lên và nó phát nổ ngay trên bàn tay. Chúng đã giết những chàng lính trẻ của chúng ta, tôi nghĩ là cô cũng hiểu, những người lính mà chúng tôi phụ trách. Cá là cô chưa bao giờ thấy ai đó bị bỏng nặng phải không? Khuôn mặt, đôi mắt, cơ thể bị lửa xóa sạch, còn lại chỉ là một thứ gì đó nhăn nheo được bao phủ bởi lớp bạch huyết vàng nhờ nhợ, và một tiếng gầm gừ phát ra dưới lớp vỏ đó...

Có lẽ chúng tôi đã sống sót nhờ sự căm thù, nhưng khi trở về nhà và nhìn lại tất cả, tôi cảm thấy đầy tội lỗi. Đôi khi phe mình sẵn sàng xóa sổ cả một ngôi làng để trả thù cho một người lính đã ngã xuống. Nghe qua thì có vẻ chính đáng đấy, ở đây nó làm tôi kinh hoàng. Tôi nhớ đến cảnh một đứa bé nằm trên cát như một con búp bê bị vất đi, không còn tay chân...

Thế nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục ngạc nhiên, rằng người dân ở đây chưa bao giờ nhìn chúng tôi với ánh mắt thiện cảm. Có đám người này đã ghé bệnh viện của chúng tôi. Chúng tôi đưa cho một người phụ nữ trong đám một ít thuốc, nhưng người phụ nữ ấy không thèm nhìn chúng tôi và chắc chắn sẽ không bao giờ mỉm cười với chúng tôi. Ở đấy, điều này thật phũ phàng, nhưng giờ khi đã về nhà, tôi hiểu chính xác những gì người phụ nữ Afghan đó đã trải qua.​
 
Sửa lần cuối:
Y tá quân đội (tiếp)

Nghề nghiệp của tôi là một nghề cao cả, là để cứu người, đồng thời cứu tôi và khiến cho cuộc đời mình có ý nghĩa. Chúng tôi được yêu cầu có mặt ở đó. Nhưng chúng tôi đã không cứu được tất cả mọi người, ngay cả khi mà chúng tôi có thể. Đó là điều tồi tệ nhất. Chúng tôi đã mất rất nhiều người vì không có đủ loại thuốc phù hợp, những người bị thương thường được đưa đến quá muộn vì những y tá trên chiến trường là những người lính không được huấn luyện bài bản nên chỉ có thể băng bó, còn lũ bác sĩ phẫu thuật thì thường say rượu. Chúng tôi không được phép nói sự thật trong những bức thư gửi cho người thân. Một đồng chí có thể bị dính mìn và để lại cho đời một nửa xô thịt và máu, nhưng chúng tôi vẫn báo cáo rằng cậu ấy chết vì ngộ độc thực phẩm, hoặc trong một vụ tai nạn ô tô, hoặc đã rơi xuống vực và mất xác. Mãi cho đến khi số người thiệt mạng lên đến hàng nghìn người, sự thật mới được gửi đến cho các gia đình. Tôi đã quen với những thi thể, nhưng tôi không bao giờ, không bao giờ có thể chấp nhận được sự thật rằng họ từng là những đứa con tinh thần của cánh quân y chúng tôi.

Có lần họ mang đến một thương binh khi tôi đang làm nhiệm vụ. Anh ta vừa mở mắt ra, nói được mỗi câu ‘Tạ ơn Chúa…’ rồi chết. Mọi người đã tìm kiếm anh ấy trong núi suốt ba ngày ba đêm. Lúc cứu về, đồng chí ấy vẫn mê sảng và lảm nhảm rằng: ‘Tôi muốn gặp bác sĩ, tôi muốn gặp bác sĩ.’ Chắc anh ấy đã nghĩ mình đã an toàn khi nhìn thấy chiếc váy quân y trắng của tôi. Nhưng đồng chí đó đã bị trọng thương. Tôi nhìn thấy những chiếc đầu lâu bị đạn băm ra thành từng mảnh. Tất cả chúng tôi ở đó đều có một rổ kỷ niệm đầy ám ảnh.


Một bô lão phe Mujahiden với khẩu Mosin cũ trên tay - 1980

Ngay cả khi chết người ta cũng phân biệt. Vì lý do nào đó, chết trong khi chiến đấu còn bi thảm hơn chết vì ốm đau trong bệnh viện. Và người sống thì đều kêu khóc trong bất cứ hoàn cảnh nào. Tôi vẫn nhớ cảnh một tay thiếu tá đã ra đi khi đang nằm trong phòng hồi sức tích cực, ông này là một cố vấn quân sự. Vợ ông ấy đến bên giường, còn ông ấy ngừng thở khi nhìn trừng trừng vào bà vợ và sau đó bà ấy lập tức kêu rú khủng khiếp, như một con vật. Chúng tôi muốn đóng cửa lại để không ai nghe thấy, vì bên cạnh có những người lính đang chết một mình, những kẻ không có ai khóc thương cho họ. ‘Mẹ ơi! Mẹ ơi!’ họ sẽ hét lên và tôi sẽ trấn an họ: ‘Đây, đây.’ Chúng tôi đã trở thành những người mẹ, người chị của những người thương binh kia, và chúng tôi muốn mình được xứng với sự tin tưởng của họ.

Có lần, có hai người lính đem một người bị thương đến giao nộp nhưng không chịu rời đi. “Chúng tôi không cần gì cả, nhưng liệu chúng tôi có thể ngồi cạnh các cô một lát được không?” Ở quê nhà, họ có mẹ, chị gái và vợ, nên dĩ nhiên chúng tôi là người thừa. Nhưng ở Afghanistan, họ sẽ kể cho chúng tôi nghe những điều mà bình thường người ta chẳng nói ra. Ví dụ, như việc ăn trộm một viên kẹo của một người bạn chiến đấu, ở quê nhà thì nghe thật là vớ vẩn làm sao, nhưng ở Afghanistan, đó như là một sự vỡ mộng mãnh liệt với chính bản thân. Trong tình huống đó, cô sẽ phát hiện ra mình thực sự là loại người như thế nào.

Cho dù có là một kẻ hèn nhát, kẻ a dua, hay một kẻ thích hãm hiếp phụ nữ, điều đó sẽ sớm bộc lộ. Ở quê nhà, có thể họ không dám thừa nhận nhưng ở Afghanistan tôi thường nghe đám đàn ông nói rằng giết người có thể là một thú vui. Một trung úy mà tôi biết, sau khi xuất ngũ đã thừa nhận điều đó. “Tôi quen với việc giết chóc rồi, giờ tái hòa nhập lại khó ghê,” chính mồm anh ta nói. Họ nói về chuyện chém giết một cách khá điềm tĩnh, một số đứa còn tự hào về việc mình đã ra tay đốt trụi một ngôi làng và đâm lê vào dân thường tới chết.

Nhưng không phải tất cả họ đều điên đâu nhỉ? Có lần có một tay sĩ quan đến thăm chúng tôi từ doanh trại ở Kandahar. Tối hôm đó, khi phải từ biệt và ra đi, ông này tự nhốt mình vào một căn phòng trống và tự sát bằng súng ngắn. Nghe đâu ông này say rượu chán đời, nhưng tôi không chắc lắm. Có lẽ sống bi quan như vậy, ngày này qua ngày khác, thật là khó khăn. Một người lính trẻ đã tự bắn vào đầu ngay ở chốt gác, sau khi đứng dưới nắng suốt ba giờ. Có lẽ thanh niên đó chưa bao giờ xa nhà trước đây và không thể chịu đựng được khổ cực chăng? Rất nhiều người trong số họ đã phát điên. Ban đầu những thương binh bị tâm lý này được xếp nằm trong khu chung nhưng sau đó họ được đưa vào những chỗ riêng biệt. Nhiều người trốn đi vì không thể chịu đựng được cảnh phải nằm sau song sắt. Họ thích ở cùng với tất cả những người còn lại. Tôi nhớ mãi một người lính trẻ. ‘Ngồi đi nào,’ cậu ấy nói với tôi, ‘em sẽ hát cho chị một bài mà đám lính bọn em hay hát khi ra quân.’ Rồi cậu ấy cứ hát cho đến khi thiếp đi, rồi chợt tỉnh dậy: ‘Tôi muốn về nhà, Tôi muốn về nhà với mẹ. Ở đây thật nóng làm sao...’ Đồng chí đó cứ không ngừng đòi về nhà.

Khá nhiều thuốc phiện và cần sa được sử dụng, và đám lính sẽ hút bất thứ gì khác mà họ có thể có được. Đó là liều thuốc khiên họ cảm thấy mạnh mẽ và thoát khỏi mọi thứ, đặc biệt là cơ thể của chính mình, như thể đang chạy mà chân không chạm đất vậy. Mọi tế bào trong cơ thể đều cảm thấy nhẹ nhàng và có thể cảm nhận được từng cơ riêng lẻ đang co duỗi. Cô sẽ thấy mình như đang bay và xen lẫn đó là một niềm hạnh phúc không thể kìm nén được. Cô sẽ thích mọi thứ và sẽ cười khúc khích trước bất kỳ điều gì vô nghĩa. À phải rồi, cô đã khám phá ra những nơi chốn, âm thanh và mùi vị mới. Trong một khoảnh khắc phê pha đó, cô chợt tin rằng Tổ quốc đang ra sức yêu thương những đứa con anh hùng của mình! Trong tâm trạng đó thật dễ dàng để giết và bị giết, cô đang phê và không còn chút cảm giác nào. Nỗi sợ hãi biến mất và cô cảm thấy mình như đang có một chiếc áo choàng vô hình thần kỳ có thể bảo vệ bản thân...

Vì vậy, đám lính sẽ hút thuốc cho đến khi phê pha rồi bắt đầu làm nhiệm vụ. Bản thân tôi cũng đã thử hút một vài lần, mỗi khi kiệt sức nhưng vẫn phải cố làm việc. Lúc đó là ở khoa truyền nhiễm, nơi dự kiến chỉ có 30 giường nhưng thay vào đó lại lên tận 300 giường, chủ yếu là các ca bệnh thương hàn và sốt rét. Mỗi bệnh nhân được phát một chiếc giường và chăn nhưng chúng tôi thường thấy họ nằm trên bãi đất trống, mặc áo khoác lính, thậm chí chỉ mặc quần lót, đầu cạo trọc nhưng chấy rận thì bò khắp người.


Trên đường tuần tra - Asmar - 1980

Ở ngôi làng gần đó, những người dân địa phương cứ đi qua đi lại trong bộ đồ ngủ của bệnh viện và đội chăn mỏng của chúng tôi trên đầu thay vì khăn xếp. Quả nhiên là các cán bộ phụ trách lẫn bệnh nhân đã bán sạch những vật phẩm trên. Và tôi thực sự không thể trách họ. Đa phần chết vì cái đồng lương ba rúp và 8 tờ tem phiếu cho một tháng, chưa kể đến khẩu phần thịt đầy giun sán và những mẩu cá ươn. Tất cả chúng tôi đều bị bệnh scorbut, riêng tôi đã mất hết bộ răng cửa. Vì lẽ vậy, họ bán đi vật tư bệnh viện để mua thuốc phiện, hoặc thứ gì đó ngọt ngào để ăn, hoặc một số đồ độc lạ từ phương Tây. Những cửa hàng tạp hóa nhỏ ở đó rất sặc sỡ và quyến rũ. Chúng tôi chưa từng thấy một cảnh tượng như vậy ở quê nhà. Đám thanh niên vẫn bán vũ khí và đạn dược của mình, dẫu biết chúng sẽ được sử dụng để giết chính mình.

Sau tất cả, tôi đã nhìn lại về Tổ quốc của mình bằng con mắt khác. Về nhà thật khó hòa nhập và rất xa lạ. Tôi cảm thấy như mình bị lột da và trở thành một con người mới. Tôi không thể ngừng khóc, và chỉ có thể thấy an tâm được khi chỉ ở bên những ai đã từng ở đó. Tôi đã dành cả ngày lẫn đêm với họ. Giãi bày với bất cứ ai khác dường như là một sự lãng phí thời gian vô ích. Khoảng thời gian đó có lẽ kéo dài sáu tháng. Bây giờ tôi lại xếp hàng và chửi nhau trong cửa hàng mậu dịch như mọi người khác, như trước khi đến Afghanistan.

Nói chung là cô sẽ cố gắng sống một cuộc sống bình thường như trước đây, nhưng rồi cô nhận ra là không thể. Tôi không quan tâm đến bản thân hay cuộc sống xung quanh nữa, chỉ cảm thấy cuộc đời mình đã xong xuôi rồi. Và điều này còn tồi tệ hơn nhiều đối với đàn ông. Một người phụ nữ có thể quên mình để dành hết cho con cái, còn lũ đàn ông chẳng có gì để đánh mất cả.

Mọi người trở về nhà, yêu nhau rồi có con - nhưng chẳng điều gì thực sự có nghĩa, khi mà Afghanistan là cuộc đời của họ. Tôi cũng ước mình có thể hiểu được đất nước đó có ý nghĩa gì và mục đích gì. Ở đó chúng tôi buộc phải giấu những câu hỏi như vậy vào trong thâm tâm mình, nhưng ở quê nhà chúng cứ tuôn ra như suối và phải được giải đáp.

Chúng tôi phải thể hiện sự thấu hiểu đối với những thanh niên đã trải qua tất cả những điều đó. Tôi là một phụ nữ đang ở độ tuổi ba mươi và điều đó đã đủ tàn khốc đối với tôi, nhưng họ chỉ là những kẻ ngây thơ, không hiểu gì cả. Họ bị bắt khỏi nhà, phải cầm súng trong tay và được dạy cách giết người. Họ được cho biết rằng họ đang thực hiện một sứ mệnh thiêng liêng và Tổ quốc sẽ ghi nhớ họ. Bây giờ tất cả mọi người đều quay mặt đi và cố quên đi chiến tranh, đặc biệt là những kẻ đã gửi chúng tôi đến đó ngay từ đầu. Ngày nay, ngay cả những cựu quân nhân như chúng tôi, cũng ngày càng ít nói về điều đó khi gặp nhau. Không ai thích cuộc chiến này. Thế nhưng tôi vẫn khóc khi vô tình nghe quốc ca Afghanistan. Tôi thích âm nhạc Afghanistan, cho đến giờ vẫn nghe, có thể nói nó giống như một loại thuốc kích thích vậy.

Gần đây, trên xe buýt, tôi gặp một anh lính từng ở bệnh viện của chúng tôi, bị mất cánh tay phải. Tôi nhớ rất rõ anh vì cùng là đồng hương ở Leningrad.

“Seryozha đấy à, dạo này anh thế nào rồi?” Tôi hỏi anh ấy.

“Bà chị cút đi cho khuất mắt!” Đáp lại tôi là thái độ tức giận của người cựu binh đó.

Tôi đoán giờ Seryozha sẽ muốn đến gặp tôi và nói lời xin lỗi. Nhưng ai sẽ xin lỗi anh ấy và những người khác đã bị tổn thương ở Afghanistan? Và tôi không chỉ nói về những thương bệnh binh, mà còn những tâm hồn đã bị chiến tranh vùi dập. Giờ tôi không chỉ ghét chiến tranh, mà còn không thể chịu nổi khi nhìn thấy một vài thằng oắt con đang ẩu đả và tẩn nhau trong công viên. Và làm ơn đừng nói với tôi rằng cuộc chiến tranh đã kết thúc rồi. Mùa hè với bầu không khí nóng bức và bụi bặm, chỉ cần nhìn thấy vũng nước tù đọng, hay ngửi mùi hoa khô ngoài đồng, những thứ đấy khiến tôi có cảm giác như bị một cú đấm vào đầu. Tôi sẽ bị Afghanistan ám ảnh suốt đời...​
 
Binh nhất, Lái xe cơ giới

Tôi đã trở về sau chiến tranh một thời gian dài, và có lẽ khó có thể diễn tả được sự tức giận của tôi trước những gì đã xảy ra ở Afghanistan với anh em chiến đấu.

Trước khi tôi được nhận lệnh triệu tập, [Về nguyên tắc, tất cả nam công dân của Liên Xô đều phải phục vụ nghĩa vụ quân sự bắt buộc hai năm khi đủ mười tám tuổi (ba năm đối với trong hải quân)], tôi đã học một khóa học hai năm tại một trường cao đẳng kỹ thuật cơ giới, vì vậy nhiệm vụ đầu tiên của tôi là lái xe cho tiểu đoàn trưởng. Điều đó ổn thôi, nhưng sau đó họ bắt đầu tuyên giáo với chúng tôi về "Những đóng góp bé nhỏ của quân đội Liên Xô ở Afghanistan". Không một buổi học lý luận chính trị nào diễn ra mà không có câu "Quân đội ta đã và đang dũng cảm bảo vệ Tổ quốc và giúp đỡ bạn bè quốc tế”. Đó là lúc chúng tôi bắt đầu lo lắng rằng mình có thể bị đưa sang đó, và đó cũng chính là lý do tại sao chính quyền quyết tâm che mắt chúng tôi.

Chúng tôi được triệu tập về sở chỉ huy tiểu đoàn và được hỏi câu:

“Bây giờ, các đồng chí chắc muốn ngồi lái trên những đầu máy mới nhất và hiện đại nhất phải không?”

Tất nhiên tất cả chúng tôi đều đồng thanh hô vang: “Muốn, thưa chỉ huy!’.

Câu hỏi tiếp theo: “Vậy thì đầu tiên, các cậu sẽ phải bỏ chút thời gian để thu hoạch lúa mì chín ở một tselina (Đất hoang – tương tự vùng kinh tế mới ở Việt Nam), có ai phản đối gì không?”

Không ai phản đối.


3 tù binh Liên Xô - Zaboul - 1982

Chỉ đến khi đã yên vị trên máy bay, thì phi hành đoàn mới tiết lộ với chúng tôi rằng chuyến bay sẽ đến Tashkent, tôi mới bắt đầu tự hỏi liệu mình có thực sự đi đến cái chỗ tselina đấy hay không. Tại Tashkent, chúng tôi xếp hàng và hành quân bộ đến một khu nhà có dây kẽm gai bao bọc cách sân bay một quãng ngắn, rồi ngồi đó và chờ đợi. Cán bộ đang đi xung quanh thì thầm, tất cả đều trong tâm trạng phấn khích. Vào giờ ăn trưa, những thùng vodka bất ngờ được đưa đến. Chúng tôi được lệnh xếp thành hàng và được thông báo rằng, trong vài giờ nữa tất cả sẽ bay tới Afghanistan để thực hiện nghĩa vụ quốc tế, theo đúng lời thề danh dự trong quân đội.

Thật không thể tin được! Sự sợ hãi và hoảng loạn đã biến con người thành thú vật, một số người trong chúng tôi thì giữ kín trong lòng, song những người khác trở nên điên tiết, hoặc khóc lóc, hay giận dữ, hoặc rơi vào trạng thái như tê liệt, vì cái trò lừa dối bẩn thỉu không thể tin nổi mà cấp trên đã giở ra với anh em chúng tôi. Tất nhiên, mục đích của vodka là để giúp chúng tôi bình tĩnh lại. Sau khi chúng tôi uống rượu và say mèm, một số người trong hàng ngũ cố gắng trốn thoát và những người khác bắt đầu đánh nhau với đám sĩ quan kia, nhưng khu nhà đã bị đám kiểm soát quân đội của các đơn vị khác bao vây và áp giải anh em lên máy bay. Chúng tôi vừa bị ném vào cái khoang sắt to lớn đó, không khác gì các thùng hàng đang được đưa lên bên cạnh.

Đó là cách mà anh em chúng tôi tới Afghanistan. Ngày hôm sau, cảnh tượng đầu tiên mà chúng tôi nhìn thấy là những người chết và bị thương, và âm thanh đầu tiên mà chúng tôi nghe được, là những cụm từ như “cuộc trinh sát”, “bắn nhau” và “chiến dịch”. Tôi đã bị sốc trước cái hiện thực đó, và phải mất vài tháng để mới lấy lại bình tĩnh.

Khi vợ tôi hỏi tại sao tôi từng tham chiến ở Afghanistan, thì được câu trả lời rằng chính tôi đã tình nguyện lên đường. Tất cả các bà mẹ và cô vợ của anh em đều được trả lời như vậy. Nếu tôi được yêu cầu hy sinh mạng sống của mình vì điều gì đó xứng đáng thì tôi sẽ tình nguyện, nhưng vấn đề là tôi đã bị lừa dối theo hai cách: Một là, họ đã lừa chúng tôi; và thứ hai, tôi phải mất tám năm ròng mới tìm ra được sự thật về cuộc chiến. Nhiều người bạn của tôi đã chết và phải nói thật rằng, đôi khi tôi ghen tị với họ vì họ sẽ không bao giờ biết họ đã chết vì cái cuộc chiến đáng khinh và vô nghĩa này, và cũng bởi vì không ai có thể lừa dối họ được nữa.​
 
Một người mẹ

Chồng tôi đã công tác ở Đông Đức và sau đó ở Mông Cổ trong nhiều năm. Tôi đã trải qua hai mươi năm cuộc đời xa quê hương, đó là khoảng thời gian tôi yêu quý và khao khát với một niềm đam mê lạ thường. Tôi thậm chí còn viết một lá thư cho Bộ Tổng tham mưu, trong đó tôi đề cập rằng đã sống hai mươi năm cuộc đời ở nước ngoài, và nói với họ rằng mình mãi không thể tha hương như thế được. “Xin hãy hỗ trợ tôi về quê.”, tôi viết vậy trong bức thư ngỏ.

Ngay cả trên tàu tôi cũng không thể tin được. “Bọn mình về nhà thật đấy à?” Tôi hỏi đi hỏi lại chồng tôi. “Không phải em đang mơ chứ?” Tại điểm dừng chân đầu tiên trên lãnh thổ Liên Xô, tôi bốc lên một nắm đất, rồi nhìn nó và mỉm cười. Phải rồi, đó thực sự là mảnh đất Tổ quốc của chúng tôi. Tôi đã đưa nó vào mồm, thậm chí còn trát khắp mặt mình.

Yura là con trai cả của tôi. Có lẽ là một người mẹ không nên có cái suy nghĩ vậy, nhưng nó chắc chắn là đứa tôi yêu quý nhất trên đời. Và tôi yêu quý nó hơn cả chồng và con trai út. Khi nó còn bé, tôi ngủ với bàn tay mình nắm chặt cái chân bé nhỏ của nó. Tôi sẽ không nghĩ đến việc sẽ đi xem chiếu bóng và để lại nó cho một cô trông trẻ xa lạ nào đó, vì vậy khi nó được ba tháng tuổi, tôi hay đưa nó (cùng với một vài chai sữa) đi cùng vào rạp. Tôi có thể thành thật nói rằng thằng bé là cuộc sống của tôi. Tôi đã tự tay nuôi dạy nó, với những bài học từ các tấm gương kinh điển Liên Xô như Pavel Korchagin, Oleg Koshevoi (Lãnh đạo đội kháng chiến “Những người lính trẻ” hồi WW2) và Zoya Kosmodemyanskaya (Nữ anh hùng đầu tiên được truy tặng danh hiện Anh hùng LLVT Xô Viết).

Trong năm đầu tiên đi học, thằng bé thuộc lòng nguyên cuốn Thép đã tôi thế đấy của Nikolai Ostrovsky, thay vì truyện cổ tích hay những bài đồng dao như những đứa trẻ khác.

Giáo viên của nó tỏ ra hãnh diện ra mặt: ‘Mẹ của em làm gì vậy, Yura? Em đọc và biết nhiều thật đấy!'

“Thưa cô, mẹ em làm việc trong thư viện ạ!”


Biểu tình phản đối Liên Xô xâm lược Afghanistan - Toronto - 1980

Nó hiểu lý tưởng nhưng không hiểu lý lẽ ngoài đời. Và với bao nhiêu năm sống xa Tổ quốc, tôi cũng nghĩ rằng cuộc sống là do lý tưởng và ý thức hệ. Khi chúng tôi trở về sống ở quê cũ, Chemovtsi, Yura theo học ở trường Cao đẳng Quân đội địa phương. Một đêm nọ, vào lúc hai giờ, chuông cửa reo, và tôi thấy Yura đang đứng trên bậc cửa, dưới mưa và ướt sũng.

‘Có phải con không, Yura? Con biết bây giờ đã khuya rồi không?”

‘Mẹ ơi, con chỉ muốn nói với mẹ rằng, con thấy cuộc sống thật khó khăn. Tất cả những lý tưởng cao đẹp mà mẹ đã chỉ cho con, chúng đều không có nghĩa gì trên đời cả. Mẹ lấy đâu ra chúng để dạy con vậy? Làm sao con có thể sống tiếp được?”

Cả đêm hai mẹ con ngồi trong bếp. Tôi có thể nói gì? Lại vẫn về những điều như thế: rằng những lý tưởng về một cuộc sống và con người Xô Viết tuyệt vời và tốt đẹp, và tôi tin đó là sự thật. Nó lặng lẽ nghe tôi rồi trở về trường vào sáng hôm sau.

Không dưới một lần tôi nài nỉ nó:

“Yura, bỏ trường quân sự đó đi, mẹ khuyên con nên vào một trường đại học dân sự. Con chưa nhận ra mình khổ sở thế nào à?”

Nó không hài lòng với sự nghiệp của mình, đó hẳn là một sự sắp đặt ngẫu nhiên. Lẽ ra nó đã trở thành một nhà sử học giỏi, sinh ra và sống vì những lý tưởng trong các cuốn sách. Tôi nhớ có lần nó nói: “Hy Lạp cổ đại hẳn tuyệt lắm”, và sau đó là về Ý. “Mẹ à, Leonardo Da Vinci đã mơ về những chuyến bay vào vũ trụ. Và khi nào đó người ta sẽ giải mã được nụ cười của nàng Mona Lisa”.

Tuy nhiên, vào năm cuối ở trường, nó đã đến Moscow vài ngày, trong kỳ nghỉ đông, để ở với anh trai tôi, một tay đại tá đã nghỉ hưu. Yura thổ lộ với bác nó rằng nó muốn vào đại học để đọc triết học.

Nhưng câu trả lời của ông sĩ quan ấy là thế này: “Cháu là một đứa thật thà, Yura à. Thật khó để trở sống như một triết gia ở thời điểm này. Cháu sẽ phải lừa dối bao người, kể cả chính mình. Nếu cháu cố gắng nói sự thật, thì cuối cùng hoặc là vào tù, hoặc là vào trại tâm thần.”

Mùa xuân năm sau, Yura quyết định trở thành một người lính. “Mẹ ơi, con đã quyết định rồi, đừng cố cản con, vì con sẽ nhập ngũ,” nó nói. Tôi đã nhìn thấy những chiếc quan tài bằng kẽm trong doanh trại quân đội, nhưng đó là năm Yura 13 tuổi và thằng út Gena vẫn bé tí. Tôi hy vọng chiến tranh sẽ kết thúc khi chúng trưởng thành. Ai ngờ nó lại kéo dài lâu như vậy. Như lời của ai đó đã nói trong ngày giỗ của Yura: “Tầm mười năm, bằng đời học sinh.”

Dường như chẳng còn thời gian để thuyết phục nữa, vào buổi tối tổ chức vũ hội tốt nghiệp, con trai tôi đã là một sĩ quan. Tôi vẫn chưa nghĩ đến việc Yura sẽ phải lên đường đi xa. Tôi không thể tưởng tượng được một cuộc sống mà không có bóng dáng của nó.

“Con sẽ được điều đi đâu?” Tôi hỏi.

“Con được giao nhiệm vụ ở Afghanistan.”

“Yura! Làm sao mà…?”

“Mẹ ơi, đây là những đường lối mà mẹ đã chỉ cho con, nên đừng khuyên bảo gì khác vào lúc này. Mẹ đã đúng, khi chỉ ra tất cả những điều tồi tệ mà con gặp ngoài kia, chúng chẳng liên quan gì đến con hay Tổ quốc Xô viết. Con sẽ đến Afghanistan, để chứng minh rằng trong cuộc sống còn có những điều cao cả hơn một tủ lạnh đầy ắp thị hay một cái xe Zhiguli.”

Nó không phải là đứa duy nhất. Nhiều đứa khác cũng nộp đơn xin tình nguyện đi Afghanistan, tất cả đều xuất thân từ những gia đình danh giá nhất, phụ huynh của chúng nó là chủ nhiệm hợp tác xã, hay giáo viên, v.v.


1 cậu bé địa phương đứng giữa hàng lính - Herat - 1992

Tôi có thể nói được gì với con trai mình? Rằng Tổ quốc không cần đến cái điều nó sẽ chứng minh? Hay với những kẻ mà nó muốn thể hiện cái lý tưởng trên, sẽ cứ tiếp tục cho rằng những người như nó đến với Afghanistan vì chỉ muốn làm giàu, hay tăng thu nhập, huân chương và danh vọng? Đối với những người như vậy, nữ anh hùng Zoya Kosmodemyanskaya có lẽ giống một người mù quáng hơn là một chiến sĩ có lý tưởng, vì người bình thường chẳng ai có thể có được những suy nghĩ dũng cảm như thế.

Tôi không thể nhớ mình đã nói và làm gì nữa. Tôi khóc lóc và thú nhận với nó những điều mà tôi sợ phải thừa nhận với chính mình. Tôi không biết nên coi đó là mình trở nên yếu đuối và khốn khổ, hay mình mới bắt đầu vỡ mộng.

“Nghe mẹ nói này, Yurochka, cuộc sống không như mẹ vẫn dạy với con. Nếu con bảo rằng con sẽ đến Afghanistan, mẹ sẽ đến giữa Quảng trường Đỏ, rồi đổ xăng lên người và tự thiêu. Con sẽ hy sinh, không phải vì Tổ quôc của con, mà là vì một cái thứ nghĩa vụ khỉ gió nào đó. Làm sao mà Tổ quốc của chúng ta lại nhấn tâm đẩy những chàng trai trai ưu tú nhất vào chỗ chết được? Đó là loại lý tưởng gì vậy?”

Yura đã nói dối tôi, nói với tôi rằng nó đã được điều đến Mông Cổ, nhưng tôi biết rõ ràng là con trai tôi sẽ ở Afghanistan.

Trong khi mọi việc đang xảy ra thì con trai út của tôi, Gena cũng nhập ngũ. Tôi không lo cho nó là bao, vì nó lớn lên hoàn toàn khác với lối nghĩ của Yura. Hai đứa cãi nhau suốt.

“Này, Gena, anh thấy mày chả đọc sách là mấy. Anh chưa thấy mày cầm một cuốn sách trong tay bao giờ, chỉ có mỗi cây đàn guitar,” Yura nói.

“Em làm sao như anh được. Bằng bạn bằng bè xung quanh là được rồi’, Gena trả lời.

Cả hai đứa đều rời khỏi nhà, và tôi chuyển đến sống trong phòng ngủ của chúng. Tôi chẳng còn hứng với mọi thứ xung quanh, ngoại trừ đồ đạc, những cuốn sách và những lá thư của chúng. Yura viết rằng đang ở Mông Cổ, nhưng những sai lệch về kiến thức địa lý đã bảo tôi biết nó thực sự đang ở đâu. Ngày này qua ngày nọ, đêm này qua đêm khác, tôi nghiền ngẫm về quá khứ và tự dằn vặt bản thân, với nhận thức rằng chính tôi đã chỉ lối cho nó đến Afghanistan. Không có một câu nói hay điệu nhạc nào có thể truyền tải nỗi đau đó đến người ta.

Rồi một ngày nọ, có những người lạ đến gõ cửa. Nét mặt của họ báo cho tôi biết rằng đó là một tin xấu. Tôi bước trở lại căn hộ và hỏi một câu, như một niềm hy vọng cuối cùng trước nỗi tuyệt vọng: “Có phải đó là về Gena không?” Họ tránh ánh nhìn của tôi, nhưng tôi vẫn sẵn sàng hy sinh cho họ đứa con út để cứu lấy đứa cả. “Có phải Gena không?”

“Không, đó là Yura”, một trong số họ nói rất khẽ.

Tôi không thể tiếp tục sống được nữa. Tôi như đã chết được hai năm rồi. Tôi không bị bệnh, nhưng tôi đang hấp hối. Tôi đã không tự thiêu trên Quảng trường Đỏ và chồng tôi đã không xé thẻ Đảng viên và ném vào mặt những kẻ chịu trách nhiệm. Tôi cho rằng chúng tôi đã chết, nhưng không ai tin. Chắc chúng tôi cũng không tin được nữa...​
 
Top