B. GULAG TỪ BÊN TRONG
5. Tại khu quản lý trại
Tại Ban Quản lý Trại Gulag, chúng tôi được đưa vào một tòa nhà mang biệt danh “khách sạn”, một căn lều quân dụng lớn với những giường tầng được làm bằng các ván gỗ thô kệch bên trong. Mỗi bộ giường tạm đó đủ cho hai người ngủ mỗi tầng. Thế là chúng tôi được cấp mỗi người một chỗ ngủ như vậy. Bên trong lều, một chiếc bếp sắt lớn tỏa hơi ấm vào lều. Cái bếp được nhóm liên tục nên làm cho lều rất ấm áp. Những người khác ở đó đã tận dụng nó, phơi quần áo xung quanh.
Các cán bộ đứng đầu của Ban Quản lý Trại đã chào đón chúng tôi. Họ đưa chúng tôi đến phòng Tổ chức, nơi chúng tôi được giao những nhiệm vụ cụ thể. Họ giải thích rằng toàn bộ trại Pechorlag được chia thành ba khu vực. Phần phía nam được gọi là Phân khu 1, phần ở giữa được gọi là Phân khu 2 và phần xa nhất phía bắc được gọi là Phân khu 3. Sau đó, mỗi khu vực được chia thành các phòng và mỗi phòng chứa nhiều đơn vị tù nhân khác nhau. Mỗi đơn vị tù nhân sẽ làm việc trên một đoạn trên quãng đường sắt sắp tới. Các đoạn đường mà họ làm việc có khoảng cách tương đối lớn, khoảng từ 10 đến 20 km, tùy thuộc vào độ khó của công việc.
Ba người chúng tôi được phân công đến Phân khu 3, cụ thể là vùng cực bắc của trại, Khu 6, có biệt danh là “Mặt nạ xám” (Серая Маска – Seraya Maska; hay Sivaia Maska theo tiếng Belarus). Nikolai Gradov, người lớn tuổi nhất trong ba người chúng tôi, được bổ nhiệm làm kỹ sư tại trụ sở chính của Khu 6. Volodia và tôi được bổ nhiệm làm quản đốc ở hai đơn vị ở khu cực bắc của Phân khu. Tôi được gửi đến một đơn vị có tên là “Pernashor”, ngay cạnh đơn vị của Volodia. Cả hai đơn vị đều ở vị trí xa nhất về phía bắc của Phân khu.
Mỏ than trại Vorkuta - 1946
Làng Abez, nơi đặt trụ sở của Ban quản lý Trại, tọa lạc bên hữu ngạn của sông Usa. Tất cả những ngôi nhà ở thị trấn Abez đều được xây bằng gỗ. Nhiều công trình trong số đó được xây dựng bằng những loại gỗ thông tốt, lấy từ những thân gỗ trôi dọc theo sông Usa, từ các nhánh của sông Bắc Ural. Ban Quản lý Trại trưng dụng các tòa nhà chính để làm các văn phòng và nhà ở, nhằm phục vụ một đội ngũ nhân viên đông đảo. Nhìn chung, tất cả đều những kỹ sư và nhân viên kỹ thuật, cùng với những nhân viên phục vụ cả tù nhân lẫn dân thường. Ban Quản lý Trại cũng có một số lượng lớn các đơn vị vệ binh có vũ trang, được gọi là Lính trại (VOKhR – Bộ đội vũ trang khu cải lao) và Đặc vụ (Nhân viên NKVD hay Chekists, mượn tên từ tổ chức phản gián Cheka thời Lenin) cũng như các cán bộ của Ban Chính trị.
Trại tù được xây ở rìa làng, dân địa phương đặt tên cho nó là “đặc khu”. Có thể thấy rõ rằng, các tháp canh cao ở mỗi góc được canh gác bởi các lính trại. Ngoài nơi ở cho những người bị kết án thông thường, trại còn có một đội ngũ nhân viên lớn gồm các tù nhân có thể đi làm và đi quanh làng mà không cần lính trại đi theo. Họ làm nhiều công việc khác nhau, nhằm phục vụ nhân viên dân sự của Ban Quản lý Trại. Những ai bị kết án có chuyên môn kỹ thuật, khi đến Gulag thì được gọi là “chuyên gia”, và nhiều người trong số họ có vị trí biên chế (nhưng thực tế vẫn là tù nhân) trong Ban Quản lý Trại.
Chúng tôi hầu như không có cơ hội để tìm hiểu cái cơ cấu phức tạp của bộ máy chính quyền ở trại, khi chúng tôi được đưa đến địa điểm làm việc trên đường ray.
Trong khoảng ba tuần ở Ban quản lý Trại, chúng tôi đã kết bạn với một số người mà chúng tôi vẫn giữ liên lạc sau khi nhận nhiệm vụ công tác trên đường ray. Sau này, vì lý do nào đó, khi chúng tôi phải quay lại Abez để gặp gỡ những người ở Ban Quản lý Trại, chúng tôi có thể ở cùng với họ trong những căn nhà ấm áp, chứ không phải trong cái lều “khách sạn” dã chiến. Theo quy định, chúng tôi phải về Abez báo cáo một hoặc hai lần một tháng, đôi khi nhiều hơn. Để đáp lễ lại cho sự hiếu khách này, chúng tôi hay chơi bài vào ban đêm, thường là trò poker, ochko hoặc durak. Những trò chơi bài này luôn đi kèm với một lượng lớn rượu được pha loãng. Sở dĩ được pha loãng vì nhân viên dân sự chỉ nhận được một chai rượu mạnh mỗi tháng một lần và phải dùng hết mới được nhận tiếp. Đám thợ dân sự chúng tôi được trả lương cao so với những nơi khác trong nước, nhưng ở vùng Viễn Bắc, thật là mỉa mai vì không có cửa hàng nào và không có bất kỳ chỗ nào để tiêu tiền. Và vào thời điểm đó, việc chơi bài bị cấm nhưng hầu như ai cũng dính. Dân thường không phải là những người duy nhất chơi bài, các tù nhân cũng vậy, đặc biệt là trò “ochko”.
Nói về tiền lương với ba kỹ sư trẻ chúng tôi, mỗi người được hưởng mức lương cơ bản là 120 rúp một tháng. Để bù đắp cho tính nặng nhọc của công việc ở phía trên Vòng Bắc Cực, họ đã trả cho chúng tôi mức lương gấp đôi trong sáu tháng đầu tiên. Sau sáu tháng đầu tiên, cấp trên cắt bỏ mức lương gấp đôi đó, và thay thế bằng khoản thưởng 10% lương thường lệ, được lãnh sau sáu tháng. Bằng cách này, lương sẽ gấp đôi số tiền chúng tôi kiếm được ban đầu sau khi làm việc được 5 năm. Sau đó, chỉ có thể kiếm được nhiều tiền hơn bằng cách được thăng chức trong công việc.
Dù sao đi nữa, chúng tôi là những người cô đơn không có nơi nào để tiêu tiền, nên việc chơi bài là cách tiêu khiển chính. Đôi khi chúng tôi cũng chơi bài để ăn được số tiền lớn. Tôi đặc biệt nhớ đến một người quen ở Ban Quản lý Trại, đó là tay Trưởng phòng Hậu cần Kỹ thuật. Lúc đó, người đàn ông này khoảng bốn mươi tuổi. Anh ấy là một chàng trai sôi nổi, hoạt bát, vui vẻ, thích đùa giỡn và thực chất anh ấy là một người lạc quan. Trái ngược với khuôn mặt trẻ trung, mái tóc dày của anh hoàn toàn màu xám. Một ngày nọ, anh ấy kể cho tôi nghe tại sao tóc anh lại bạc khi còn trẻ như vậy.
Có vẻ như anh ấy đã từng làm việc ở Moscow một lần, với một công việc mà anh đã được thăng chức lên vị trí sếp lớn trước khi mới bốn mươi tuổi. Anh ấy từng là một Đảng viên, và vào thời điểm đó, dường như anh ấy có một sự nghiệp rực rỡ phía trước. Nhưng vào năm 1937, các vụ bắt giữ hàng loạt xảy đến với văn phòng của nơi anh làm, và anh bị bắt. Và nghiễm nhiên, anh bị khai trừ khỏi Đảng vắng mặt. Một tổ ba người (troika – bao gồm 1 nhân viên NKVD, 1 Đảng viên và 1 nhân viên tư pháp) đã kết án anh mà không có bất kỳ cuộc kiểm tra pháp lý nào, không có bất kỳ cuộc họp nào với các vị quan chức liên quan, và thậm chí không có bất kỳ luật sư nào có mặt để bào chữa. Người ta kết án tử hình anh bằng hình thức xử bắn. Anh ấy không thể tin được điều này, nhưng khi họ đọc bản tuyên án cho anh nghe, và đưa anh vào danh sách tử hình (trong phòng giam cùng với những tù nhân khác cũng bị kết án tử hình), thì cuối cùng anh cũng biết rằng thôi thế là xong.
Ở trong tù, họ cho phép anh viết đơn xin ân xá, đồng thời nói rằng họ sẽ xem xét vấn đề này trong vòng 72 giờ. Anh là một trong bốn người đàn ông trong phòng giam đã bị kết án tử hình. Trong tù, đại diện chính quyền sẽ xuất hiện vào khoảng 4 giờ sáng để triệu tập các tù nhân và đưa ra phản hồi của NKVD đối với các kiến nghị và kháng cáo của họ. Bên cạnh phòng anh là những phòng giam khác đầy những người bị kết án. Điều này có nghĩa là đến lúc bình minh, mọi người ở tất cả các phòng giam đều thức và chờ đợi. Mỗi tù nhân đang lắng nghe và cố gắng tìm hiểu xem, liệu những âm thanh vang vọng mà họ nghe thấy ở cuối hành lang có phải là tiếng bước chân của cai ngục hay không, và liệu họ có đang đến phòng giam của anh ta hay không. Nói cách khác, nếu có tiếng bước chân đi ngang qua phòng giam của bạn, điều đó có nghĩa là bạn có thêm 24 giờ nữa để sống.
Tuy nhiên, một ngày nọ, tiếng bước chân dừng lại bên ngoài phòng giam của anh. Họ gọi tên anh và bảo anh mang đồ đạc ra ngoài. (Mang theo đồ đạc cá nhân có nghĩa là tù nhân sẽ không bị đem đi thẩm vấn nữa.) Họ dẫn anh ấy đến gặp một tay giám đốc nhà tù nào đó, người này nói với anh rằng đơn xin ân xá của mình đã được chấp nhận. Thay vì bản án tử hình, bản án của anh ấy đã được giảm xuống còn 25 năm trong trại Gulag. Anh đã phục vụ hơn một năm trong trại Gulag, và bất ngờ sao, khi vào năm 1939, anh được ân xá hoàn toàn. Hơn nữa, anh còn được phục hồi chức vụ Đảng viên, tất cả các bằng khen và huân chương mà anh ấy được nhận đều được trả lại, anh ta được trả lương cho thời gian làm việc cuối cùng trước khi bị bắt và tiền lương cho toàn bộ thời gian bị giam giữ. Sau đó họ đề nghị anh ở lại Gulag và làm việc như một công dân tình nguyện. Và anh ấy đồng ý ở lại.
Một năm sau khi chúng tôi gặp nhau, người đàn ông này thực sự đã cứu tôi khỏi một án tù dài hạn. Tôi sẽ kể chi tiết hơn về điều này sau.
Dãy nhà hành chính của trại Vorkuta - Hè 2009
Trong suốt những năm làm việc ở Gulag, tôi đã gặp nhiều người từng là tù nhân, từng thụ án một thời gian, rồi đột nhiên được phục hồi lại đầy đủ chức quyền. Nhưng hầu hết họ đã không giống như người đàn ông này, anh bước ra khỏi chốn lao tù với tinh thần lạc quan và tâm hồn vui vẻ. Hầu hết họ đều suy sụp về mặt tinh thần lẫn thể chất trong suốt quãng đời còn lại.
Trong khoảng thời gian ba tuần chúng tôi làm việc tại Ban Quản lý Trại trước khi bắt đầu công việc của mình trên đường ray, một biến cố đã xảy ra khiến chúng tôi bị sốc, và khiến chúng tôi lo lắng về nơi mình đang ở và những gì đang chờ đợi phía trước. Ở Ban Quản lý Trại, luôn có một người làm công việc gác đêm. Một đêm lúc chúng tôi còn ở đó, người gác đêm hôm đó vốn là một chuyên gia trẻ, có trình độ học vấn cao (giống như chúng tôi), người đã làm việc ở Pechorlag một thời gian và đã có công việc ổn định ở công trình đường ray. Buổi sáng sau ca trực đêm của anh, họ phát hiện ra chuyên gia trẻ tuổi này đã treo cổ tự tử. Cách anh ấy làm rất khác thường. Anh ta buộc một đầu sợi dây vào tay cầm trên khung cửa sổ, còn đầu kia làm một chiếc thòng lọng, rồi quàng qua cổ và nằm xuống sàn. Chiều dài của sợi dây ngắn đến mức nếu anh ta nằm xuống sàn, thòng lọng sẽ thắt chặt, còn khi đứng lên, thòng lọng sẽ lỏng ra. Chúng tôi hiểu rằng anh ấy đã lựa chọn một cái chết đau đớn, chỉ để thoát khỏi tất cả những gì anh ấy đã thấy ở Gulag.
Vấn đề là một khi đã đi làm trong Gulag thì không có khả năng tự ý rời khỏi hệ thống Gulag. Để rời bỏ công việc ở Gulag, bạn phải xin phép người đứng đầu Phòng Cán bộ của ban NKVD ở Gulag nơi bạn làm. Vì Gulag luôn thiếu người nên việc được phép thôi việc ở Gulag hợp lệ là điều gần như không thể. (Tất nhiên, vẫn có trường hợp ngoại lệ là hối lộ hoặc chỉ là sự may mắn không tưởng.)
Quay trở lại Ban quản lý trại ở Pechorlag, tôi muốn nói thêm về việc những người cán bộ quản lý trại ở Abez gặp khó khăn ra sao, khi điều hành một cái trại Cải lao rộng lớn như vậy. Như tôi đã nói ở trên, Pechorlag trải dài dọc theo tuyến đường sắt tương lai dài 500 km. Vì nó nằm gần vòng Bắc Cực, nên ở đó không có đường sá bình thường hay bất kỳ hệ thống thông tin liên lạc phát triển nào. Các đơn vị tù nhân sống và làm việc trong một khu vực trải dài 500km. Do đó, Ban Quản lý Trại cũng như các khu vực và phòng ban của nó chỉ có thể liên lạc với các đơn vị tù nhân này bằng cách sử dụng “Selektor”. Đó là một loại điện thoại có nút bấm trên tay cầm, khi bạn nhấn vào nút, bạn có thể nói với đầu dây bên kia nhưng không thể nghe thấy họ.
Các phòng ban chỉ có thể liên lạc với chính quyền sở tại bằng thư hoặc Selektor. Vì chưa có đường ray hoàn chỉnh nào được xây dựng mà chỉ có đường ray tạm thời, nên họ gửi hàng hóa hay nhu yếu phẩm đến các đơn vị tù nhân chủ yếu bằng xe trượt tuyết vào mùa đông, và bằng ngựa vào mùa hè. Ở một số khu trại gần sông Usa hoặc Pechora, thuyền có thể được sử dụng. Những lá thư từ các đơn vị cấp dưới gửi đến chính quyền cấp trên phải mất hàng tuần mới đến được, và ngoài ranh giới của trại, phải mất hàng tháng. Không có sách, ngoại trừ những cuốn mà một số người đã mang theo khi đến đây và các tài liệu tuyên truyền do chính quyền gửi đến. Không có điện, nên trong những đêm dài đó, chúng tôi chỉ có đèn dầu, là những lon thiếc rỗng mà chúng tôi đổ dầu vào và dùng sợi bấc để đốt. Không hề có đèn dây tóc.
Điều này có nghĩa là cái Selektor kia đảm nhận vai trò liên lạc hàng ngày đối với các đơn vị. Và đa phần, khi nhấc máy lên, bạn sẽ nghe thấy hàng loạt lời lẽ, chửi bới thậm tệ, thậm chí còn đe dọa sẽ tống giam bạn vào tù nếu như không hoàn thành kế hoạch hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng. Hiếm khi, và như một quy luật đã định, bất ngờ tay lãnh đạo từ chính quyền khu vực hoặc phòng ban liên quan đến thăm đơn vị trong một thời gian ngắn. Chừng mỗi tháng một lần, quản đốc và chủ quản của đơn vị trại (nếu có, vì ở nhiều đơn vị trại không có chủ quản và công việc của vị này cũng để quản đốc đảm nhận) được gọi lên cấp trên để xác nhận kế hoạch và đưa ra báo cáo trong các cuộc họp hàng tháng. Ban Quản lý Trại, tức là trụ sở chính của trại, rất hiếm khi gọi đến kiểm tra.
Nói chung, không có nhân viên dân sự nào khác trong các đơn vị quản lý tù nhân ngoài quản đốc, và đôi khi là chủ trại, hoặc chỉ huy đội an ninh. Đôi khi cấp trên cử một y tá đến thăm một thời gian ngắn, nhưng chúng tôi thường nhờ một số tù nhân có chuyên môn về y tế khi chúng tôi cần giúp đỡ. Một tỷ lệ rất lớn tù nhân bị bệnh mãn tính. Điều này là do khí hậu khắc nghiệt, thức ăn không đạt tiêu chuẩn, quần áo nghèo nàn, một ngày làm việc kéo dài 12 tiếng và phải làm ngoài trời, không có hầu hết các loại thuốc cần thiết, sự buồn tẻ trong doanh trại, tình trạng suy thoái đạo đức vô tội vạ và nhiều lý do khác. Những bệnh nhân thực sự bị ốm đã được đưa đến bệnh viện, nhưng những người khác vẫn đứng vững, do tình cờ được chăm sóc bởi một tù nhân có kiến thức về y tế. Sự vắng mặt của đội ngũ y sĩ dân sự tại các đơn vị đã ảnh hưởng cực kỳ xấu đến năng suất làm việc của tù nhân.